Tin tức
on Friday 09-05-2025 1:07pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Nguyễn Hoàng Bảo Ngân – IVF Tâm Anh
Tại các nước phát triển, phụ nữ trì hoãn sinh con khiến nguy cơ vô sinh do tuổi tác tăng cao. Đông lạnh noãn (oocyte cryopreservation - OC) ở tuổi trẻ giúp bảo tồn khả năng sinh sản. Kỹ thuật thủy tinh hóa hiện đại cải thiện đáng kể tỷ lệ sống và hiệu quả lâm sàng so với phương pháp đông lạnh chậm, dẫn đến sự gia tăng đáng kể về số lượng chu kỳ OC.
Đông lạnh noãn theo kế hoạch (planned oocyte cryopreservation - POC) đề cập đến thủy tinh hóa noãn nhằm bảo tồn khả năng sinh sản trước khi suy giảm do tuổi tác. POC thường được thực hiện khi phụ nữ còn trẻ giúp tăng cơ hội sinh con theo gen sau này và tăng quyền tự chủ cho phụ nữ. Thuật ngữ "đông lạnh xã hội" không phản ánh đúng mục đích y học nên được thay bằng POC theo khuyến nghị của hiệp hội y học sinh sản Hoa Kỳ. POC khác với việc hiến noãn hay bảo tồn khả năng sinh sản trước điều trị y khoa. Số ca POC tăng mạnh trong thập kỷ qua, nhưng dữ liệu về hiệu quả lâm sàng còn hạn chế do ít người dùng noãn sau khi đông lạnh và thời gian theo dõi ngắn. Việc gộp POC với các chỉ định OC khác làm giảm độ chính xác trong nghiên cứu và khả năng áp dụng cho phụ nữ cân nhắc POC.
Bài đánh giá này nhằm tổng hợp dữ liệu mới nhất về POC để hỗ trợ phụ nữ cân nhắc lựa chọn, giúp ra quyết định và tư vấn lâm sàng hiệu quả hơn.
Phương pháp
Nghiên cứu thu thập dữ liệu từ năm 1990 đến tháng 8/2022 từ PubMed (MEDLINE) và EMBASE. Sau khi áp dụng các tiêu chí loại trừ đã chỉ định, tổng cộng có 10 nghiên cứu được đưa vào phân tích, bao gồm 8750 phụ nữ đã thực hiện POC. Kết cục chính là tỷ lệ sinh con sống, được đánh giá riêng cho từng phụ nữ và từng lần chuyển phôi. Các kết cục phụ bao gồm số phụ nữ quay lại để rã đông noãn, tỷ lệ sống của noãn sau rã và tỷ lệ thụ tinh tính theo phần trăm của số noãn sống sau rã đông.
Kết quả
Đặc điểm nghiên cứu
Các nghiên cứu phân tích được công bố từ năm 2017 đến 2022, thu thập dữ liệu về POC từ năm 1999 đến 2020 và đến từ nhiều quốc gia như Mỹ, Anh, Thụy Điển, Israel, Tây Ban Nha, Bỉ, Đài Loan và Úc. Có 10 nghiên cứu, gồm 1 nghiên cứu đoàn hệ, 7 nghiên cứu quan sát hồi cứu và 2 khảo sát bằng bảng câu hỏi.
Đặc điểm bảo quản lạnh
Phân tích tổng hợp gồm 8.750 phụ nữ thực hiện POC, với độ tuổi trung bình là 37,2 (±0,8). Trong đó, 8,7% (±13,1%) trên 40 tuổi và 19,4% (±11,7) từ 35 tuổi trở xuống. Trung bình, mỗi phụ nữ trải qua 1,4 (±0,6) chu kỳ, thu được 13,1 (±1,2) noãn, tương đương 9,3 (±0,5) noãn mỗi chu kỳ. Bốn nghiên cứu báo cáo trung bình 10,4 (±0,9) noãn được thủy tinh hóa. Số noãn thu được giảm theo tuổi: 15,8 (≤35 tuổi), 13,9 (36–40), 10,1 (≥40). Thủy tinh hóa là phương pháp phổ biến nhất (87,4% ±23,7%). Năm nghiên cứu chỉ dùng thủy tinh hóa, các nghiên cứu còn lại dùng kết hợp với đông lạnh chậm. Hai nghiên cứu cung cấp dữ liệu tỷ lệ sống cao hơn khi thực hiện thủy tinh hóa. PGT-A được sử dụng trong ba nghiên cứu với tỷ lệ trung bình 28% (±33,9%).
Tỷ lệ quay lại
Tám nghiên cứu báo cáo tổng cộng 1.517 phụ nữ quay lại rã noãn, trung bình 1,2 (±0,1) chu kỳ/người, với tỷ lệ quay lại là 11,1% (±4,7%). Thời gian theo dõi trung bình 11,4 (±4,0) năm, dao động từ 6–18 năm. Bốn nghiên cứu ghi nhận độ tuổi trung bình khi trữ noãn là 38,1 (±0,4) và khi rã đông là 41,8 (±1,2), với thời gian trung bình giữa hai mốc là 3,8 năm (±1,1). Trung bình, mỗi người quay lại có 12,6 (±3,6) noãn trữ. 73,6% (±20,9%) sử dụng tinh trùng của bạn đời, 26,4% (±20,9%) dùng tinh trùng hiến tặng.
Tỷ lệ sống của noãn và các kết quả xét nghiệm khác
Bảy nghiên cứu báo cáo tỷ lệ sống trung bình của noãn là 78,3% (±5,4%) và tỷ lệ thụ tinh là 72,1% (±14,2%).
Tỷ lệ sinh con sống
10 nghiên cứu đều báo cáo tỷ lệ sinh con sống sau rã đông với tổng 447 ca, tương đương 28,4% (±12,3%)/ bệnh nhân và 30,6% (±14,1%)/ lần chuyển phôi.
Trong phân tích nhóm phụ, những phụ nữ đông lạnh noãn ở độ tuổi ≥40 đạt tỷ lệ sinh con sống/bệnh nhân là 19% (KTC 95% 0,13–0,29, I2 = 6%), trong khi những phụ nữ ở độ tuổi ≤35 tuổi trở xuống có tỷ lệ sinh con sống/ bệnh nhân cao hơn là 52% (KTC 95% 0,41–0,63, I2 = 7%)
Bàn luận
Tỷ lệ sinh con sống cao gấp đôi khi POC được thực hiện trước 35 tuổi so với sau 40 tuổi, và số ca POC cao hơn tại mỗi trung tâm có liên quan đến tỷ lệ noãn sống sót cao hơn.
Đây là nghiên cứu lớn và toàn diện nhất về POC đến nay, tổng hợp dữ liệu mới nhất từ nhiều quốc gia giúp nâng cao tính khái quát. Tuy nhiên, phần lớn dữ liệu đến từ các nghiên cứu quan sát không có đối chứng và khảo sát, dễ bị sai lệch kết quả. Do số lượng nghiên cứu còn ít, kết quả cần được xem xét thận trọng và cần thêm nghiên cứu sâu hơn để kết luận.
Tỷ lệ sinh con sống trung bình chỉ 28% ở phụ nữ 37–38 tuổi, nên cần cân nhắc kỹ. Dữ liệu theo độ tuổi giúp cá nhân hóa quyết định như thực hiện thêm chu kỳ, từ bỏ POC, hoặc sinh con sớm. Trung tâm có nhiều ca POC hơn có tỷ lệ sống của noãn cao hơn, nhưng không cải thiện tỷ lệ sinh con sống, củng cố khuyến nghị của ASRM rằng các trung tâm thông báo cho bệnh nhân về kinh nghiệm và tỷ lệ thành công của OC.
Ngoài ra, cần thêm nghiên cứu để xác định mối liên hệ giữa số noãn được trữ và kết quả sinh nở. Thời gian theo dõi ngắn có thể làm giảm ước tính tỷ lệ quay lại sử dụng noãn.
Kết luận
POC là lựa chọn tiềm năng cho phụ nữ muốn trì hoãn sinh con, nhưng hiệu quả giảm ở tuổi trên 40. Phụ nữ <35 có tỷ lệ sinh cao hơn, cho thấy nên thực hiện POC sớm để đạt kết quả tốt hơn. Thêm vào đó, cần nghiên cứu sâu hơn để đánh giá hiệu quả theo từng nhóm tuổi.
Nguồn tham khảo: Hirsch, A., Hirsh Raccah, B., Rotem, R., Hyman, J. H., & Tsafrir, A. (2024). Planned oocyte cryopreservation: A systematic review and meta-regression analysis. Human Reproduction Update, 30(5), 558-568. https://doi.org/10.1093/humupd/dmae009
Tại các nước phát triển, phụ nữ trì hoãn sinh con khiến nguy cơ vô sinh do tuổi tác tăng cao. Đông lạnh noãn (oocyte cryopreservation - OC) ở tuổi trẻ giúp bảo tồn khả năng sinh sản. Kỹ thuật thủy tinh hóa hiện đại cải thiện đáng kể tỷ lệ sống và hiệu quả lâm sàng so với phương pháp đông lạnh chậm, dẫn đến sự gia tăng đáng kể về số lượng chu kỳ OC.
Đông lạnh noãn theo kế hoạch (planned oocyte cryopreservation - POC) đề cập đến thủy tinh hóa noãn nhằm bảo tồn khả năng sinh sản trước khi suy giảm do tuổi tác. POC thường được thực hiện khi phụ nữ còn trẻ giúp tăng cơ hội sinh con theo gen sau này và tăng quyền tự chủ cho phụ nữ. Thuật ngữ "đông lạnh xã hội" không phản ánh đúng mục đích y học nên được thay bằng POC theo khuyến nghị của hiệp hội y học sinh sản Hoa Kỳ. POC khác với việc hiến noãn hay bảo tồn khả năng sinh sản trước điều trị y khoa. Số ca POC tăng mạnh trong thập kỷ qua, nhưng dữ liệu về hiệu quả lâm sàng còn hạn chế do ít người dùng noãn sau khi đông lạnh và thời gian theo dõi ngắn. Việc gộp POC với các chỉ định OC khác làm giảm độ chính xác trong nghiên cứu và khả năng áp dụng cho phụ nữ cân nhắc POC.
Bài đánh giá này nhằm tổng hợp dữ liệu mới nhất về POC để hỗ trợ phụ nữ cân nhắc lựa chọn, giúp ra quyết định và tư vấn lâm sàng hiệu quả hơn.
Phương pháp
Nghiên cứu thu thập dữ liệu từ năm 1990 đến tháng 8/2022 từ PubMed (MEDLINE) và EMBASE. Sau khi áp dụng các tiêu chí loại trừ đã chỉ định, tổng cộng có 10 nghiên cứu được đưa vào phân tích, bao gồm 8750 phụ nữ đã thực hiện POC. Kết cục chính là tỷ lệ sinh con sống, được đánh giá riêng cho từng phụ nữ và từng lần chuyển phôi. Các kết cục phụ bao gồm số phụ nữ quay lại để rã đông noãn, tỷ lệ sống của noãn sau rã và tỷ lệ thụ tinh tính theo phần trăm của số noãn sống sau rã đông.
Kết quả
Đặc điểm nghiên cứu
Các nghiên cứu phân tích được công bố từ năm 2017 đến 2022, thu thập dữ liệu về POC từ năm 1999 đến 2020 và đến từ nhiều quốc gia như Mỹ, Anh, Thụy Điển, Israel, Tây Ban Nha, Bỉ, Đài Loan và Úc. Có 10 nghiên cứu, gồm 1 nghiên cứu đoàn hệ, 7 nghiên cứu quan sát hồi cứu và 2 khảo sát bằng bảng câu hỏi.
Đặc điểm bảo quản lạnh
Phân tích tổng hợp gồm 8.750 phụ nữ thực hiện POC, với độ tuổi trung bình là 37,2 (±0,8). Trong đó, 8,7% (±13,1%) trên 40 tuổi và 19,4% (±11,7) từ 35 tuổi trở xuống. Trung bình, mỗi phụ nữ trải qua 1,4 (±0,6) chu kỳ, thu được 13,1 (±1,2) noãn, tương đương 9,3 (±0,5) noãn mỗi chu kỳ. Bốn nghiên cứu báo cáo trung bình 10,4 (±0,9) noãn được thủy tinh hóa. Số noãn thu được giảm theo tuổi: 15,8 (≤35 tuổi), 13,9 (36–40), 10,1 (≥40). Thủy tinh hóa là phương pháp phổ biến nhất (87,4% ±23,7%). Năm nghiên cứu chỉ dùng thủy tinh hóa, các nghiên cứu còn lại dùng kết hợp với đông lạnh chậm. Hai nghiên cứu cung cấp dữ liệu tỷ lệ sống cao hơn khi thực hiện thủy tinh hóa. PGT-A được sử dụng trong ba nghiên cứu với tỷ lệ trung bình 28% (±33,9%).
Tỷ lệ quay lại
Tám nghiên cứu báo cáo tổng cộng 1.517 phụ nữ quay lại rã noãn, trung bình 1,2 (±0,1) chu kỳ/người, với tỷ lệ quay lại là 11,1% (±4,7%). Thời gian theo dõi trung bình 11,4 (±4,0) năm, dao động từ 6–18 năm. Bốn nghiên cứu ghi nhận độ tuổi trung bình khi trữ noãn là 38,1 (±0,4) và khi rã đông là 41,8 (±1,2), với thời gian trung bình giữa hai mốc là 3,8 năm (±1,1). Trung bình, mỗi người quay lại có 12,6 (±3,6) noãn trữ. 73,6% (±20,9%) sử dụng tinh trùng của bạn đời, 26,4% (±20,9%) dùng tinh trùng hiến tặng.
Tỷ lệ sống của noãn và các kết quả xét nghiệm khác
Bảy nghiên cứu báo cáo tỷ lệ sống trung bình của noãn là 78,3% (±5,4%) và tỷ lệ thụ tinh là 72,1% (±14,2%).
Tỷ lệ sinh con sống
10 nghiên cứu đều báo cáo tỷ lệ sinh con sống sau rã đông với tổng 447 ca, tương đương 28,4% (±12,3%)/ bệnh nhân và 30,6% (±14,1%)/ lần chuyển phôi.
Trong phân tích nhóm phụ, những phụ nữ đông lạnh noãn ở độ tuổi ≥40 đạt tỷ lệ sinh con sống/bệnh nhân là 19% (KTC 95% 0,13–0,29, I2 = 6%), trong khi những phụ nữ ở độ tuổi ≤35 tuổi trở xuống có tỷ lệ sinh con sống/ bệnh nhân cao hơn là 52% (KTC 95% 0,41–0,63, I2 = 7%)
Bàn luận
Tỷ lệ sinh con sống cao gấp đôi khi POC được thực hiện trước 35 tuổi so với sau 40 tuổi, và số ca POC cao hơn tại mỗi trung tâm có liên quan đến tỷ lệ noãn sống sót cao hơn.
Đây là nghiên cứu lớn và toàn diện nhất về POC đến nay, tổng hợp dữ liệu mới nhất từ nhiều quốc gia giúp nâng cao tính khái quát. Tuy nhiên, phần lớn dữ liệu đến từ các nghiên cứu quan sát không có đối chứng và khảo sát, dễ bị sai lệch kết quả. Do số lượng nghiên cứu còn ít, kết quả cần được xem xét thận trọng và cần thêm nghiên cứu sâu hơn để kết luận.
Tỷ lệ sinh con sống trung bình chỉ 28% ở phụ nữ 37–38 tuổi, nên cần cân nhắc kỹ. Dữ liệu theo độ tuổi giúp cá nhân hóa quyết định như thực hiện thêm chu kỳ, từ bỏ POC, hoặc sinh con sớm. Trung tâm có nhiều ca POC hơn có tỷ lệ sống của noãn cao hơn, nhưng không cải thiện tỷ lệ sinh con sống, củng cố khuyến nghị của ASRM rằng các trung tâm thông báo cho bệnh nhân về kinh nghiệm và tỷ lệ thành công của OC.
Ngoài ra, cần thêm nghiên cứu để xác định mối liên hệ giữa số noãn được trữ và kết quả sinh nở. Thời gian theo dõi ngắn có thể làm giảm ước tính tỷ lệ quay lại sử dụng noãn.
Kết luận
POC là lựa chọn tiềm năng cho phụ nữ muốn trì hoãn sinh con, nhưng hiệu quả giảm ở tuổi trên 40. Phụ nữ <35 có tỷ lệ sinh cao hơn, cho thấy nên thực hiện POC sớm để đạt kết quả tốt hơn. Thêm vào đó, cần nghiên cứu sâu hơn để đánh giá hiệu quả theo từng nhóm tuổi.
Nguồn tham khảo: Hirsch, A., Hirsh Raccah, B., Rotem, R., Hyman, J. H., & Tsafrir, A. (2024). Planned oocyte cryopreservation: A systematic review and meta-regression analysis. Human Reproduction Update, 30(5), 558-568. https://doi.org/10.1093/humupd/dmae009
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
Năm 2020
New World Saigon hotel, Thứ bảy ngày 14 . 6 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK