Tin tức
on Friday 09-05-2025 4:29am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Đoàn Thị Thùy Dương – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology - ART) đã giúp nhiều bệnh nhân vô sinh có cơ hội làm cha mẹ, nhưng một số người vẫn gặp phải tình trạng thất bại nhiều lần trong việc cấy phôi dù phôi được chuyển có chất lượng tốt, được gọi là thất bại làm tổ liên tiếp (repeated implantation failure - RIF). RIF xảy ra khi bệnh nhân không mang thai sau ba chu kỳ chuyển phôi dù đã chuyển ít nhất bốn phôi chất lượng tốt hoặc hai phôi nang. Tỷ lệ mắc RIF dao động từ 5-10% trên toàn cầu, gây ra không chỉ gánh nặng tài chính mà còn những lo âu tâm lý cho bệnh nhân và gia đình họ. Để cải thiện kết quả điều trị, các phương pháp như xét nghiệm di truyền phôi, sàng lọc sự tiếp nhận nội mạc tử cung và can thiệp tổn thương nội mạc tử cung đã được thử nghiệm. Ngoài ra, việc truyền vào tử cung các yếu tố như hCG, tế bào đơn nhân máu ngoại vi, huyết tương giàu tiểu cầu và hormone tăng trưởng cũng được nghiên cứu nhằm nâng cao khả năng thành công. Một trong những phương pháp được đánh giá cao trong việc cải thiện kết quả cấy phôi là chuyển phôi liên tiếp, trong đó phôi giai đoạn phân chia (ngày 3) được chuyển trước, sau đó là phôi nang (ngày 5/6) trong cùng một chu kỳ. Nhiều nghiên cứu cho thấy phương pháp này giúp tăng tỷ lệ mang thai lâm sàng và giảm tỷ lệ thai đôi không mong muốn so với các phương pháp chuyển phôi thông thường. Tuy nhiên, vẫn thiếu các nghiên cứu đánh giá tác động của chuyển phôi liên tiếp đến tỷ lệ sinh sống và sức khỏe chu sinh của mẹ và con. Do đó, nghiên cứu này nhằm khảo sát tỷ lệ sinh sống và các kết quả chu sinh ở phụ nữ RIF sau khi thực hiện chuyển phôi liên tiếp. Các chỉ số chính sẽ bao gồm tỷ lệ sinh sống khỏe mạnh và các kết quả phụ như tuổi thai, cân nặng khi sinh, tỷ lệ sinh non và các bệnh lý thai kỳ.
Phương pháp
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 6 năm 2023 trên các bệnh nhân có hai hoặc nhiều chu kì thất bại làm tổ và đang trải qua các chu kì chuyển phôi đông lạnh (FET - frozen‒thawed embryo transfer). Sau đó, 1740 chu kỳ được đưa vào phân tích và ba nhóm được thiết lập theo giao thức chuyển phôi (ET-embryo transfer): ET tuần tự (Seq-ET-sequential ET) (chuyển 1 phôi ngày 3 và 1 phôi nang ) ( n = 268 chu kỳ), ET 2 phôi ngày 3 (D3-dET-double cleavage-stage ET) ( n = 979 chu kỳ) và ET 2 phôi nang (D5/6-dET-double blastocyst ET) ( n = 493 chu kỳ). Kết quả nghiên cứu bao gồm tỉ lệ sinh con sống và kết quả chu sinh của các nhóm.
Kết quả
Nghiên cứu cho thấy nhóm Seq-ET có tỷ lệ sinh con sống cao hơn đáng kể so với nhóm D3-dET (42,9% so với 33,1%, P=0,003), trong khi đó, tỷ lệ sinh con sống của nhóm Seq-ET tương đương với nhóm D5/6-dET (42,9% so với 35,7%, P = 0,051).
Khi đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ trẻ sinh sống thì thấy rằng BMI của phụ nữ tỉ lệ nghịch với tỉ lệ sinh con sống (OR 0,96, 95% CI: 0,92–1,00, P = 0,040), trong khi đó, độ dày nội mạc tử cung lại tỉ lệ thuận với tỷ lệ trẻ sinh sống (OR 1,08, 95% CI: 1,00–1,16, P = 0,042) và tỷ lệ sinh trẻ khỏe mạnh (OR 1,10, 95% CI: 1,02–1,19, P = 0,018). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào được tìm thấy trong tỷ lệ sinh con khỏe mạnh hoặc sinh đôi giữa các nhóm Seq-ET, D3-dET và D5/6-dET, tỷ lệ sinh non, cân nặng hoặc chiều dài khi sinh, cân nặng khi sinh thấp, to đầu, thai nhỏ so với tuổi thai (SGA-small for gestational age), đái tháo đường thai kỳ (GDM-gestational diabetes mellitus), bệnh tăng huyết áp thai kỳ (GHD-gestational hypertensive disease) hoặc tỷ lệ giới tính giữa ba nhóm.
Trẻ sơ sinh sinh ra trong nhóm D5/6-dET có số tuần thai ít hơn so với nhóm Seq-ET và D3-dET (38,05 ± 1,88 so với 38,43 ± 2,09 và 38,45 ± 1,80, P = 0,013) và có nguy cơ thai to so với tuổi thai (LGA-large-for-gestational age) cao hơn (aOR 2,15, 95%CI 1,00-4,62) so với trẻ sơ sinh sinh ra trong nhóm D3-dET.
Bàn luận
Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên công bố dữ liệu về kết quả chu sinh sau khi thực hiện chuyển phôi liên tiếp (Seq-ET) và so sánh với chuyển phôi giai đoạn phân chia (D3-dET) và chuyển phôi nang (D5/6-dET). Kết quả cho thấy Seq-ET không làm tăng nguy cơ các biến chứng chu sinh so với hai phương pháp còn lại. Tỷ lệ sinh sống ở nhóm Seq-ET cao hơn nhóm D3-dET và tương đương nhóm D5/6-dET. Mặc dù tỷ lệ sinh sống khỏe mạnh không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm, Seq-ET giúp giảm tỷ lệ thai đôi, một yếu tố quan trọng trong điều trị ART. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc sử dụng chuyển phôi nang không làm thay đổi nhiều kết quả chu sinh so với chuyển phôi giai đoạn phân cắt, mặc dù một số kết quả như tỷ lệ thai to có sự khác biệt trước và sau khi điều chỉnh. Kết quả này hỗ trợ việc sử dụng chuyển phôi liên tiếp như một phương pháp an toàn và hiệu quả cho bệnh nhân RIF.
Kết luận
Tỷ lệ sinh con sống cao hơn đáng kể ở nhóm Seq-ET so với nhóm D3-dET và cao hơn so với nhóm D5/6-dET. Kết quả của nghiên cứu cho thấy Seq-ET không ảnh hưởng đến kết quả chu sinh.
Nguồn: Gao, J., Li, R., Liu, P., Wang, H., & Long, X. (2025). Live birth rate and perinatal outcomes following sequential embryo transfer in women with recurrent implantation failure undergoing frozen-thawed embryo transfer cycles. BMC Pregnancy and Childbirth, 25(1), 433.
Giới thiệu
Công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology - ART) đã giúp nhiều bệnh nhân vô sinh có cơ hội làm cha mẹ, nhưng một số người vẫn gặp phải tình trạng thất bại nhiều lần trong việc cấy phôi dù phôi được chuyển có chất lượng tốt, được gọi là thất bại làm tổ liên tiếp (repeated implantation failure - RIF). RIF xảy ra khi bệnh nhân không mang thai sau ba chu kỳ chuyển phôi dù đã chuyển ít nhất bốn phôi chất lượng tốt hoặc hai phôi nang. Tỷ lệ mắc RIF dao động từ 5-10% trên toàn cầu, gây ra không chỉ gánh nặng tài chính mà còn những lo âu tâm lý cho bệnh nhân và gia đình họ. Để cải thiện kết quả điều trị, các phương pháp như xét nghiệm di truyền phôi, sàng lọc sự tiếp nhận nội mạc tử cung và can thiệp tổn thương nội mạc tử cung đã được thử nghiệm. Ngoài ra, việc truyền vào tử cung các yếu tố như hCG, tế bào đơn nhân máu ngoại vi, huyết tương giàu tiểu cầu và hormone tăng trưởng cũng được nghiên cứu nhằm nâng cao khả năng thành công. Một trong những phương pháp được đánh giá cao trong việc cải thiện kết quả cấy phôi là chuyển phôi liên tiếp, trong đó phôi giai đoạn phân chia (ngày 3) được chuyển trước, sau đó là phôi nang (ngày 5/6) trong cùng một chu kỳ. Nhiều nghiên cứu cho thấy phương pháp này giúp tăng tỷ lệ mang thai lâm sàng và giảm tỷ lệ thai đôi không mong muốn so với các phương pháp chuyển phôi thông thường. Tuy nhiên, vẫn thiếu các nghiên cứu đánh giá tác động của chuyển phôi liên tiếp đến tỷ lệ sinh sống và sức khỏe chu sinh của mẹ và con. Do đó, nghiên cứu này nhằm khảo sát tỷ lệ sinh sống và các kết quả chu sinh ở phụ nữ RIF sau khi thực hiện chuyển phôi liên tiếp. Các chỉ số chính sẽ bao gồm tỷ lệ sinh sống khỏe mạnh và các kết quả phụ như tuổi thai, cân nặng khi sinh, tỷ lệ sinh non và các bệnh lý thai kỳ.
Phương pháp
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 6 năm 2023 trên các bệnh nhân có hai hoặc nhiều chu kì thất bại làm tổ và đang trải qua các chu kì chuyển phôi đông lạnh (FET - frozen‒thawed embryo transfer). Sau đó, 1740 chu kỳ được đưa vào phân tích và ba nhóm được thiết lập theo giao thức chuyển phôi (ET-embryo transfer): ET tuần tự (Seq-ET-sequential ET) (chuyển 1 phôi ngày 3 và 1 phôi nang ) ( n = 268 chu kỳ), ET 2 phôi ngày 3 (D3-dET-double cleavage-stage ET) ( n = 979 chu kỳ) và ET 2 phôi nang (D5/6-dET-double blastocyst ET) ( n = 493 chu kỳ). Kết quả nghiên cứu bao gồm tỉ lệ sinh con sống và kết quả chu sinh của các nhóm.
Kết quả
Nghiên cứu cho thấy nhóm Seq-ET có tỷ lệ sinh con sống cao hơn đáng kể so với nhóm D3-dET (42,9% so với 33,1%, P=0,003), trong khi đó, tỷ lệ sinh con sống của nhóm Seq-ET tương đương với nhóm D5/6-dET (42,9% so với 35,7%, P = 0,051).
Khi đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ trẻ sinh sống thì thấy rằng BMI của phụ nữ tỉ lệ nghịch với tỉ lệ sinh con sống (OR 0,96, 95% CI: 0,92–1,00, P = 0,040), trong khi đó, độ dày nội mạc tử cung lại tỉ lệ thuận với tỷ lệ trẻ sinh sống (OR 1,08, 95% CI: 1,00–1,16, P = 0,042) và tỷ lệ sinh trẻ khỏe mạnh (OR 1,10, 95% CI: 1,02–1,19, P = 0,018). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào được tìm thấy trong tỷ lệ sinh con khỏe mạnh hoặc sinh đôi giữa các nhóm Seq-ET, D3-dET và D5/6-dET, tỷ lệ sinh non, cân nặng hoặc chiều dài khi sinh, cân nặng khi sinh thấp, to đầu, thai nhỏ so với tuổi thai (SGA-small for gestational age), đái tháo đường thai kỳ (GDM-gestational diabetes mellitus), bệnh tăng huyết áp thai kỳ (GHD-gestational hypertensive disease) hoặc tỷ lệ giới tính giữa ba nhóm.
Trẻ sơ sinh sinh ra trong nhóm D5/6-dET có số tuần thai ít hơn so với nhóm Seq-ET và D3-dET (38,05 ± 1,88 so với 38,43 ± 2,09 và 38,45 ± 1,80, P = 0,013) và có nguy cơ thai to so với tuổi thai (LGA-large-for-gestational age) cao hơn (aOR 2,15, 95%CI 1,00-4,62) so với trẻ sơ sinh sinh ra trong nhóm D3-dET.
Bàn luận
Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên công bố dữ liệu về kết quả chu sinh sau khi thực hiện chuyển phôi liên tiếp (Seq-ET) và so sánh với chuyển phôi giai đoạn phân chia (D3-dET) và chuyển phôi nang (D5/6-dET). Kết quả cho thấy Seq-ET không làm tăng nguy cơ các biến chứng chu sinh so với hai phương pháp còn lại. Tỷ lệ sinh sống ở nhóm Seq-ET cao hơn nhóm D3-dET và tương đương nhóm D5/6-dET. Mặc dù tỷ lệ sinh sống khỏe mạnh không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm, Seq-ET giúp giảm tỷ lệ thai đôi, một yếu tố quan trọng trong điều trị ART. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc sử dụng chuyển phôi nang không làm thay đổi nhiều kết quả chu sinh so với chuyển phôi giai đoạn phân cắt, mặc dù một số kết quả như tỷ lệ thai to có sự khác biệt trước và sau khi điều chỉnh. Kết quả này hỗ trợ việc sử dụng chuyển phôi liên tiếp như một phương pháp an toàn và hiệu quả cho bệnh nhân RIF.
Kết luận
Tỷ lệ sinh con sống cao hơn đáng kể ở nhóm Seq-ET so với nhóm D3-dET và cao hơn so với nhóm D5/6-dET. Kết quả của nghiên cứu cho thấy Seq-ET không ảnh hưởng đến kết quả chu sinh.
Nguồn: Gao, J., Li, R., Liu, P., Wang, H., & Long, X. (2025). Live birth rate and perinatal outcomes following sequential embryo transfer in women with recurrent implantation failure undergoing frozen-thawed embryo transfer cycles. BMC Pregnancy and Childbirth, 25(1), 433.
Các tin khác cùng chuyên mục:












TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK