Tin tức
on Monday 05-05-2025 1:01pm
Danh mục: Tin quốc tế
Công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART), bao gồm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), đã trở thành giải pháp quan trọng cho các cặp vợ chồng vô sinh, chiếm 2.2% tổng số ca sinh tại Mỹ vào năm 2019. Tuy nhiên, những lo ngại về sự an toàn lâu dài của ART vẫn tồn tại, đặc biệt là nguy cơ dị tật bẩm sinh và ung thư ở trẻ.
Một nghiên cứu quy mô lớn gần đây đã phân tích dữ liệu từ 1.562.540 trẻ sinh sống tại 4 tiểu bang (Massachusetts, North Carolina, Texas, New York) từ năm 2004–2018, bao gồm 165.125 trẻ ART, 31.524 anh chị em không dùng ART, 12.451 trẻ OI/IUI và 1.353.440 trẻ thụ thai tự nhiên. Tất cả được liên kết với cơ quan đăng ký dị tật bẩm sinh để xác định các dị tật chính trong năm đầu đời. Trẻ có dị tật được phân loại thành: Nhiễm sắc thể (có bất thường NST, kèm hoặc không kèm dị tật khác) và không nhiễm sắc thể (có dị tật chính nhưng không bất thường NST). Tỷ lệ được tính trên 1000 trẻ. Mô hình hồi quy logistic được sử dụng để tính tỷ số chênh (AOR) và khoảng tin cậy 95% (CI) về nguy cơ dị tật theo nhóm thụ thai (OI/IUI, anh chị em không ART, ART theo nguồn noãn và trạng thái phôi), điều chỉnh theo tuổi cha mẹ, chủng tộc, BMI, đa thai, giới tính trẻ, v.v. Mô hình Cox được dùng để ước tính tỷ lệ nguy cơ (HR) ung thư theo tình trạng dị tật và nhóm thụ thai.
Kết quả cho thấy nguy cơ ung thư ở trẻ phụ thuộc vào hai yếu tố độc lập: phương pháp thụ thai và tình trạng dị tật bẩm sinh.
Dị tật bẩm sinh: 2% trẻ đơn thai và 3.5% trẻ song thai có ít nhất một dị tật bẩm sinh chính. Tỷ lệ cao hơn ở song thai phù hợp với các nghiên cứu trước đây về nguy cơ do đa thai. Trẻ ART từ noãn tự thân có nguy cơ cao hơn với dị tật không nhiễm sắc thể (AOR 1,22–1,85), bao gồm bất thường blastogenesis (Rối loạn giai đoạn phát triển phôi sớm, ví dụ: dị tật ống thần kinh), tim mạch, tiêu hóa và (ở nam) tiết niệu-sinh dục. Nhóm noãn tự thân-phôi tươi cũng tăng nguy cơ cơ-xương (AOR 1,28) và dị tật hàm mặt (AOR 1,40). Nhóm noãn hiến tặng chỉ tăng nguy cơ dị tật khi dùng phôi đông lạnh.
Ung thư: Nguy cơ ung thư tăng ở nhóm ART noãn tự thân-phôi tươi (HR 1,31) và anh chị em không dùng ART (HR 1,34). Điều này cho thấy nguy cơ yếu tố di truyền từ cha mẹ hoặc môi trường gia đình (ví dụ: tiếp xúc hóa chất. Nguy cơ bạch cầu tăng ở nhóm OI/IUI (HR 2,15) và anh chị em không ART (HR 1,63). U hệ thần kinh trung ương tăng ở nhóm ART noãn tự thân-phôi tươi (HR 1,68), noãn hiến tặng-phôi tươi (HR 2,57) và anh chị em không ART (HR 1,84).
Đồng mắc dị tật và ung thư: 127 trẻ có cả dị tật và ung thư (42% là bạch cầu). Nguy cơ ung thư phụ thuộc vào: Phương pháp thụ thai và Sự hiện diện, loại và số lượng dị tật.
Dị tật không nhiễm sắc thể làm tăng nguy cơ ung thư, đặc biệt khi có ≥2 dị tật. Dị tật nhiễm sắc thể có liên quan mạnh với ung thư (HR 8,70 cho mọi loại; HR 21,90 cho bạch cầu), tăng cao hơn nếu kèm dị tật không nhiễm sắc thể.
ART làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh không nhiễm sắc thể. Dị tật bẩm sinh làm tăng thêm nguy cơ ung thư, đặc biệt ở nhóm ART. Nghiên cứu không chứng minh quan hệ nhân quả, nhưng gợi ý cần theo dõi chặt chẽ trẻ ART, anh chị em không ART và trẻ có dị tật để phát hiện sớm ung thư.
Nguồn: Luke B, Brown MB, Wantman E, Schymura MJ, Browne ML, Fisher SC, Forestieri NE, Rao C, Nichols HB, Yazdy MM, Gershman ST, Sacha CR, Williams M, Ethen MK, Canfield MA, Doody KJ, Eisenberg ML, Baker VL, Williams C, Sutcliffe AG, Richard MA, Lupo PJ. The risks of birth defects and childhood cancer with conception by assisted reproductive technology. Hum Reprod. 2022 Oct 31;37(11):2672-2689. doi: 10.1093/humrep/deac196. PMID: 36112004; PMCID: PMC9960485.
Một nghiên cứu quy mô lớn gần đây đã phân tích dữ liệu từ 1.562.540 trẻ sinh sống tại 4 tiểu bang (Massachusetts, North Carolina, Texas, New York) từ năm 2004–2018, bao gồm 165.125 trẻ ART, 31.524 anh chị em không dùng ART, 12.451 trẻ OI/IUI và 1.353.440 trẻ thụ thai tự nhiên. Tất cả được liên kết với cơ quan đăng ký dị tật bẩm sinh để xác định các dị tật chính trong năm đầu đời. Trẻ có dị tật được phân loại thành: Nhiễm sắc thể (có bất thường NST, kèm hoặc không kèm dị tật khác) và không nhiễm sắc thể (có dị tật chính nhưng không bất thường NST). Tỷ lệ được tính trên 1000 trẻ. Mô hình hồi quy logistic được sử dụng để tính tỷ số chênh (AOR) và khoảng tin cậy 95% (CI) về nguy cơ dị tật theo nhóm thụ thai (OI/IUI, anh chị em không ART, ART theo nguồn noãn và trạng thái phôi), điều chỉnh theo tuổi cha mẹ, chủng tộc, BMI, đa thai, giới tính trẻ, v.v. Mô hình Cox được dùng để ước tính tỷ lệ nguy cơ (HR) ung thư theo tình trạng dị tật và nhóm thụ thai.
Kết quả cho thấy nguy cơ ung thư ở trẻ phụ thuộc vào hai yếu tố độc lập: phương pháp thụ thai và tình trạng dị tật bẩm sinh.
Dị tật bẩm sinh: 2% trẻ đơn thai và 3.5% trẻ song thai có ít nhất một dị tật bẩm sinh chính. Tỷ lệ cao hơn ở song thai phù hợp với các nghiên cứu trước đây về nguy cơ do đa thai. Trẻ ART từ noãn tự thân có nguy cơ cao hơn với dị tật không nhiễm sắc thể (AOR 1,22–1,85), bao gồm bất thường blastogenesis (Rối loạn giai đoạn phát triển phôi sớm, ví dụ: dị tật ống thần kinh), tim mạch, tiêu hóa và (ở nam) tiết niệu-sinh dục. Nhóm noãn tự thân-phôi tươi cũng tăng nguy cơ cơ-xương (AOR 1,28) và dị tật hàm mặt (AOR 1,40). Nhóm noãn hiến tặng chỉ tăng nguy cơ dị tật khi dùng phôi đông lạnh.
Ung thư: Nguy cơ ung thư tăng ở nhóm ART noãn tự thân-phôi tươi (HR 1,31) và anh chị em không dùng ART (HR 1,34). Điều này cho thấy nguy cơ yếu tố di truyền từ cha mẹ hoặc môi trường gia đình (ví dụ: tiếp xúc hóa chất. Nguy cơ bạch cầu tăng ở nhóm OI/IUI (HR 2,15) và anh chị em không ART (HR 1,63). U hệ thần kinh trung ương tăng ở nhóm ART noãn tự thân-phôi tươi (HR 1,68), noãn hiến tặng-phôi tươi (HR 2,57) và anh chị em không ART (HR 1,84).
Đồng mắc dị tật và ung thư: 127 trẻ có cả dị tật và ung thư (42% là bạch cầu). Nguy cơ ung thư phụ thuộc vào: Phương pháp thụ thai và Sự hiện diện, loại và số lượng dị tật.
Dị tật không nhiễm sắc thể làm tăng nguy cơ ung thư, đặc biệt khi có ≥2 dị tật. Dị tật nhiễm sắc thể có liên quan mạnh với ung thư (HR 8,70 cho mọi loại; HR 21,90 cho bạch cầu), tăng cao hơn nếu kèm dị tật không nhiễm sắc thể.
ART làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh không nhiễm sắc thể. Dị tật bẩm sinh làm tăng thêm nguy cơ ung thư, đặc biệt ở nhóm ART. Nghiên cứu không chứng minh quan hệ nhân quả, nhưng gợi ý cần theo dõi chặt chẽ trẻ ART, anh chị em không ART và trẻ có dị tật để phát hiện sớm ung thư.
Nguồn: Luke B, Brown MB, Wantman E, Schymura MJ, Browne ML, Fisher SC, Forestieri NE, Rao C, Nichols HB, Yazdy MM, Gershman ST, Sacha CR, Williams M, Ethen MK, Canfield MA, Doody KJ, Eisenberg ML, Baker VL, Williams C, Sutcliffe AG, Richard MA, Lupo PJ. The risks of birth defects and childhood cancer with conception by assisted reproductive technology. Hum Reprod. 2022 Oct 31;37(11):2672-2689. doi: 10.1093/humrep/deac196. PMID: 36112004; PMCID: PMC9960485.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
Năm 2020
New World Saigon hotel, Thứ bảy ngày 14 . 6 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK