Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 23-04-2025 3:29am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
 
Tổng quan
Vô sinh nam do yếu tố nam là một trong những nguyên nhân vô sinh phổ biến. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy vô sinh nam và chất lượng tinh dịch có liên quan đến tỉ lệ mắc một số bệnh lý cao hơn trong đời và tuổi thọ ngắn hơn. Một nghiên cứu phát hiện thấy tỉ lệ tử vong cao hơn ở nam giới vô sinh do yếu tố nam so với nam giới trong các cặp vợ chồng vô sinh không có yếu tố nam, trong khi các nghiên cứu khác chỉ báo cáo tỉ lệ tử vong cao hơn ở nam giới vô tinh chứ không phải ở những người thiểu tinh. Tuy nhiên, chất lượng tinh dịch có liên quan đến tỉ lệ tử vong theo cách phụ thuộc vào mật độ tinh trùng, cho thấy mối quan tâm về sức khỏe suy giảm không chỉ giới hạn ở nam giới vô tinh. Một nghiên cứu theo dõi dài hạn trên 43.277 nam giới không bị vô tinh cho thấy tỉ lệ tử vong giảm khi nồng độ tinh trùng tăng lên đến ngưỡng 40 triệu/ml, một giá trị cao hơn đáng kể so với ngưỡng tham chiếu của Tổ chức Y tế Thế giới là 16 triệu/ml (Tổ chức Y tế Thế giới WHO, 2021). Tỉ lệ tử vong cũng giảm khi tỉ lệ tinh trùng di động và hình thái bình thường tăng lên.
 
Hầu hết nam giới vô sinh không có bất kỳ bệnh lý đi kèm nghiêm trọng nào tại thời điểm đánh giá khả năng sinh sản của họ, vì họ vẫn còn tương đối trẻ. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng ở cấp độ nhóm, nam giới vô sinh có nhiều bệnh lý đi kèm hơn tại thời điểm đánh giá khả năng sinh sản so với nam giới có khả năng sinh sản tương đương. Chất lượng tinh dịch là yếu tố cần xem xét vì ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy các thông số tinh dịch có liên quan đến tình trạng bệnh tật gia tăng và tuổi thọ ngắn hơn, ngay cả ở mức cao hơn giá trị ngưỡng thường được sử dụng để chẩn đoán vô sinh nam, do đó chất lượng tinh dịch có thể là dấu ấn sinh học phổ biến về bệnh tật và tử vong.
 
Dựa trên cơ sở dữ liệu lớn về chất lượng tinh dịch với lịch sử theo dõi lên tới 50 năm, nhóm tác giả đã nghiên cứu mối liên hệ giữa chất lượng tinh dịch và tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân, có tính đến các chẩn đoán và điều trị tại bệnh viện trong 10 năm trước khi xét nghiệm tinh dịch.
 
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu theo dõi sổ đăng ký này dựa trên Cơ sở dữ liệu chất lượng tinh dịch Đan Mạch (DaSe), bao gồm những nam giới cung cấp mẫu tinh dịch từ năm 1963 đến năm 2015 tại phòng xét nghiệm phân tích tinh dịch tại Phòng xét nghiệm y khoa tổng quát Copenhagen. Những nam giới đã được bác sĩ giới thiệu đến phòng xét nghiệm để đánh giá chất lượng tinh dịch để xác định các nguyên nhân vô sinh. Do đó, kết quả đại diện cho một loạt các chất lượng tinh dịch, từ những người bị vô tinh đến những người có chất lượng tinh dịch rất tốt. Những nam giới được đưa vào nghiên cứu hiện tại nếu họ cung cấp mẫu tinh dịch từ năm 1965, nếu họ từ 18 đến 65 tuổi tại thời điểm cung cấp mẫu và nếu cơ sở dữ liệu bao gồm thông tin tối thiểu về mật độ tinh trùng, thời gian kiêng xuất tinh.
 
Tổng cộng, 78.284 nam giới được đưa vào nghiên cứu. Ngoài ra, một nhóm dân số phụ có dữ liệu sức khỏe có sẵn trong ít nhất 10 năm trước khi cung cấp mẫu tinh dịch bao gồm những người cung cấp mẫu từ năm 1987 trở đi (N=59.657) cũng được đánh giá trong nghiên cứu này.
 
Kết quả
Mô tả chung
Tổng dân số nghiên cứu bao gồm 78.284 nam giới, trong đó 8.600 người (11,0%) tử vong trong quá trình theo dõi (thời gian theo dõi trung bình: 23 năm). Độ tuổi trung bình của những người này là 32 tuổi. Mật độ tinh trùng trung bình là 46 triệu/ml (0–182 triệu/ml). Nhóm phụ cũng có độ tuổi trung bình là 32 tuổi khi bắt đầu nghiên cứu và được theo dõi trong thời gian trung bình là 20 năm với 3.059 ca tử vong (5,1%). Các thông số tinh dịch trong nhóm phụ này tương tự như các thông số của toàn bộ dân số, mặc dù mật độ tinh trùng và tổng số lượng tinh trùng cao hơn một chút (mật độ 48 triệu/ml so với 37 triệu/ml; tổng số tinh trùng 154 triệu so với 113 triệu lần lượt giữa nhóm phụ và toàn bộ dân số nghiên cứu).
Trong phân nhóm dân số, 20,7% đã được điều trị (bất kỳ) tại bệnh viện trong 10 năm trước khi bắt đầu, thường liên quan đến gãy xương và các tình trạng không xác định rõ (lần lượt là 10,4% và 6,1%), trong khi chỉ một số ít có thực hiện điều trị khác, ví dụ như bệnh ác tính (0,6%) hoặc liên quan đến dinh dưỡng và chuyển hóa (0,4%). Nam giới được điều trị trước đó có xu hướng có mật độ tinh trùng cao hơn những người không điều trị (trung bình: 51 so với 47 triệu/ml). Tuy nhiên, mật độ tinh trùng thấp hơn đối với các phân nhóm cụ thể của nam giới có bệnh ác tính trước đó (trung bình: 35 triệu/ml), các bệnh liên quan đến hệ tuần hoàn (trung bình: 44 triệu/ml) hoặc hệ tiết niệu sinh dục (trung bình: 43 triệu/ml) so với những người không có các bệnh lý này (trung bình: 48 triệu/ml).
Chất lượng tinh dịch và tuổi thọ trung bình
Theo giá trị tuyệt đối, nam giới bị vô tinh hoặc tổng số lượng tinh trùng di động >0–5 triệu có tuổi thọ trung bình lần lượt là 78,0 và 77,6 năm, trong khi đó, nam giới có tổng số lượng tinh trùng di động >120 triệu có tuổi thọ trung bình là 80,3 năm, tương ứng với tuổi thọ trung bình giảm 2,3 và 2,7 năm (P<0,001). Sự khác biệt tương tự giữa các loại chất lượng tinh dịch thấp nhất và cao nhất đã được quan sát thấy đối với các thông số tinh dịch khác.
Chất lượng tinh dịch và tử vong do mọi nguyên nhân
Đối với toàn bộ dân số (N=78.284), tất cả các thông số tinh dịch đều có liên quan tiêu cực đến tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân (P<0,001 đối với tất cả các thông số tinh dịch). Tuy nhiên, nguy cơ tử vong cao hơn đối với nam giới bị vô tinh có xu hướng ít rõ rệt hơn so với nhóm nam giới có chất lượng tinh dịch ở ngưỡng tiếp theo (có mật độ tinh trùng >0–5 triệu/ml, tổng số tinh trùng >0–10 triệu hoặc tổng số tinh trùng di động >0–5 triệu). Nam giới bị vô tinh có HR (ước tính tỉ lệ rủi ro) = 1,28 (95% KTC: 1,12-1,46), trong khi nam giới có tổng số tinh trùng di động >0–5 triệu có HR=1,46 (95% KTC: 1,35-1,59) so với nhóm nam giới tham chiếu có tổng số tinh trùng di động >120 triệu.
Đối với nhóm phụ (N=59.657) cho thấy xu hướng tương tự như đối với tổng dân số, nhưng chênh lệch rõ rệt hơn. Ví dụ, nam giới bị vô tinh trùng có HR=1,52 (95% KTC: 1,15-2,02), trong khi nam giới có tổng số tinh trùng di động >0–5 triệu có HR=1,70 (95% KTC: 1,50-1,93) so với tham chiếu. Sau khi điều chỉnh, sự khác biệt về khả năng sống sót vẫn được quan sát thấy (P<0,001 đối với tất cả các thông số tinh dịch), nhưng hầu hết HR đều giảm nhẹ. Trong các phân tích đã điều chỉnh, so với nhóm tham chiếu có tổng số lượng tinh trùng di động >120 triệu, tất cả các nhóm khác đều có nguy cơ tử vong cao hơn đáng kể mà không có ngưỡng rõ ràng (vô tinh trùng: HR=1,39 (95% KTC: 1,05-1,85), >0–5 triệu: HR=1,61 (95% KTC: 1,42-1,83), >5–10 triệu: HR=1,38 (95% KTC: 1,14-1,68), >10–40 triệu: HR=1,27 (95% KTC: 1,13-1,42), >40–80 triệu: HR=1,16 (95% KTC: 1,03-1,29), và >80–120 triệu: HR=1,19 (95% KTC: 1,06-1,34)).
 
Kết luận
Trong nghiên cứu lớn này quan sát thấy chất lượng tinh dịch thấp hơn có liên quan đến việc tăng tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân theo cách liều lượng-phản ứng đối với tất cả các thông số về tinh dịch. Về số lượng tuyệt đối, nam giới có tổng số lượng tinh trùng di động >120 triệu có tuổi thọ trung bình dài hơn 2,7 năm so với nam giới có tổng số lượng tinh trùng di động > 0–5 triệu.
 
Điểm mạnh của nghiên cứu có thể liên kết với thông tin sức khỏe từ các sổ đăng ký hợp lệ và theo dõi mở rộng lên đến 50 năm. Mặc dù những người đàn ông được đưa vào nghiên cứu được mô tả khá đầy đủ dựa trên dữ liệu sổ đăng ký, nhưng có một hạn chế là thiếu thông tin vượt quá những gì có thể thu được từ sổ đăng ký, ví dụ như thông tin về hành vi sức khỏe, trình độ học vấn có thể làm nhiễu các mối liên hệ được nghiên cứu. Trước khi có thể bắt đầu các sáng kiến ​​phòng ngừa, cần có thêm các nghiên cứu để xác định các bệnh lý xảy ra muộn liên quan đến chất lượng tinh dịch. Do đó, các nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào quỹ đạo bệnh theo chất lượng tinh dịch cũng như các dấu hiệu sinh học sớm có thể là dấu hiệu bệnh có liên quan ở nam giới vô sinh.
 
Nguồn: L Priskorn, R Lindahl-Jacobsen, T K Jensen, S A Holmboe, L S Hansen, M Kriegbaum, B S Lind, V Siersma, C L Andersen, N Jørgensen, Semen quality and lifespan: a study of 78 284 men followed for up to 50 years, Human Reproduction, Volume 40, Issue 4, April 2025, Pages 730-738.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

Năm 2020
Năm 2020

New World Saigon hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 06 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK