Tin tức
on Saturday 03-05-2025 1:12pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Huỳnh Cẩm Tú – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Khoảng 12-15% tổng số thai kỳ sống sẽ kết thúc bằng sảy thai. Nhiều yếu tố di truyền và môi trường đã được liên kết với sảy thai, nhưng nguyên nhân cơ bản vẫn chưa rõ trong gần 40% các trường hợp. Các kỹ thuật hình ảnh hiện đại gồm siêu âm 3D, sử dụng các đầu dò siêu âm qua âm đạo có độ phân giải cao và các kỹ thuật thực tế ảo có thể cung cấp cái nhìn mới mẻ về sự phát triển của thai kỳ, cho phép chúng ta nghiên cứu hình thái học phôi thai từ các thai kỳ sống tiếp tục đến khi sinh con, cũng như từ các thai kỳ sống dẫn đến sảy thai. Tuy nhiên, hiện nay chưa có dữ liệu về hình thái học phôi thai trong các thai kỳ sống cuối cùng kết thúc bằng sảy thai.
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá khả năng một thai kỳ sống sẽ kết thúc bằng sảy thai dựa trên các giai đoạn phát triển phôi thai.
Phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ từ năm 2010 đến 2018 trên 644 phụ nữ mang đơn thai, theo dõi đến 1 năm sau khi sinh. Sảy thai là thai kỳ không còn sống trước tuần thứ 22 của tuổi thai, được xác định bằng việc không có nhịp tim qua siêu âm trong thai kỳ sống đã được ghi nhận trước đó.
Các phụ nữ mang thai có thai kỳ đơn được đưa vào nghiên cứu và các lần siêu âm qua đường âm đạo ba chiều liên tiếp được thực hiện. Sự phát triển hình thái học phôi thai được đánh giá qua các giai đoạn phát triển theo tiêu chuẩn Carnegie và các kỹ thuật thực tế ảo. Hình thái học phôi thai được so sánh với các tham số tăng trưởng lâm sàng (ví dụ: chiều dài đầu mông (crown-rump length - CRL) và thể tích phôi thai (embryonic volume - EV)). Các mô hình hỗn hợp tuyến tính được sử dụng để đánh giá mối liên quan giữa sảy thai và các giai đoạn Carnegie (Mô hình 1). Hồi quy logistic với phương trình ước tính tổng quát được sử dụng để tính tỷ lệ sảy thai sau khi có sự trì hoãn ở các giai đoạn Carnegie. Các điều chỉnh được thực hiện cho các yếu tố gây nhiễu hoặc yếu tố đồng hành và bao gồm tuổi tác, số lần sinh và tình trạng hút thuốc (Mô hình 2).
Kết quả
Dữ liệu nghiên cứu có được 644 thai kỳ sống, trong đó 611 thai kỳ đang diễn tiến và 33 thai kỳ kết thúc bằng sảy thai, được đưa vào phân tích cuối cùng. Trong số 611 thai kỳ diễn tiến, có 1068 bộ dữ liệu siêu âm 3D để xác định các giai đoạn Carnegie. Trong số 33 thai kỳ sảy thai, có tổng cộng 59 bộ dữ liệu siêu âm 3D để xác định các giai đoạn Carnegie. Về đặc điểm đầu vào, có sự khác biệt đáng kể giữa các thai kỳ diễn tiến và các thai kỳ sảy thai về tuổi mẹ (32,5 so với 34,7 tuổi, p=0,01), tiền sử sảy thai tái diễn (16,8% so với 39,4%, p=0,001) và phương thức thụ thai (p=0,017).
Các giai đoạn Carnegie khác nhau giữa các thai kỳ diễn tiến và các thai kỳ sảy thai (p<0,001). So với một thai kỳ đang tiếp tục, thai kỳ sảy thai có liên quan đến điểm số giai đoạn Carnegie thấp hơn mong đợi trong Mô hình 1 (bCarnegie=-1,061, p<0,001) và trong Mô hình 2 (bCarnegie=-0,824, p<0,001).
So với một thai kỳ đang tiếp tục, thai kỳ sảy thai có liên quan đến CRL nhỏ hơn trong Mô hình 1 (bCRL=-0,273, p<0,001) và trong Mô hình 2 (bCRL=-0.120, p=0,049). Ngoài ra, EV nhỏ hơn trong các thai kỳ sảy thai, thể hiện qua chỉ số EV thấp hơn mong đợi trong Mô hình 1 (bEV=-0,122, p<0,001) và trong Mô hình 2 (bEV=-0,060,p=0,027).
Một phôi sống của thai kỳ sảy thai sẽ đạt được giai đoạn Carnegie cuối cùng với sự chậm trễ 4,0 ngày so với một thai kỳ đang tiếp tục. Các giai đoạn Carnegie của từng trường hợp dao động từ +3,1 ngày (tức là phát triển hình thái tiến triển) đến -7,8 ngày (tức là bị chậm). 48% các thai kỳ sảy thai (16 trường hợp), điểm phát triển hình thái đầu tiên, được phản ánh qua giai đoạn Carnegie, thấp hơn các thai kỳ diễn tiến. Sử dụng các phép đo lặp lại, khoảng một nửa số thai kỳ sảy thai thể hiện sự phát triển hình thái bình thường, trong khi phần còn lại phát triển chậm hoặc tiến triển sớm hơn các thai kỳ diễn tiến.
Sự chậm trễ trong giai đoạn Carnegie làm tăng tỷ lệ sảy thai 2,7% cho mỗi giai đoạn Carnegie bị chậm (ORCarnegie=1,027, p=0,004). Đối với Mô hình 2, tỷ lệ sảy thai tăng 1,5% cho mỗi giai đoạn Carnegie bị chậm (ORCarnegie=1,015, p=0,028).
Tỉ số nguy cơ (Hazard Ratio – HR) không cho thấy mối liên hệ giữa sự chậm trễ trong các giai đoạn Carnegie và khả năng sảy thai trong Mô hình 1 (HRCarnegie=1,180, p=0,130) nhưng không thể ước lượng cho mô hình đã điều chỉnh đầy đủ vì không thể đạt được sự hội tụ của mô hình.
Thảo luận
Đây là nghiên cứu đầu tiên theo dõi sự phát triển hình thái thai trong tử cung ở các trường hợp thai sống nhưng sau đó sảy thai, sử dụng hệ thống phân loại Carnegie. Kết quả cho thấy có sự khác biệt rõ rệt trong quá trình phát triển thai giữa thai kỳ diễn tiến và thai kỳ sảy thai. Cụ thể, các thai trong nhóm sảy thai bị trễ trung bình 4 ngày trong việc đạt đến giai đoạn phát triển hình thái cuối cùng theo Carnegie. Ngoài ra, sự phát triển thể chất của thai được đo bằng CRL và EV cũng thấp hơn trong nhóm sảy thai.
Mỗi sự chậm trễ một giai đoạn Carnegie có thể làm tăng nguy cơ sảy thai thêm 1,5%. Nghiên cứu còn xác định hai kiểu phát triển khác nhau: một nhóm có CRL nhỏ và phát triển chậm; nhóm còn lại có CRL bình thường nhưng sự phát triển hình thái lại bị trì hoãn về sau. Cả hai có thể đại diện cho những nguyên nhân sảy thai khác nhau, cần nghiên cứu sâu hơn.
Do chỉ chọn các thai còn sống từ tuần 7 trở đi, nên chưa thể loại trừ khả năng có sự phát triển nhanh bất thường trước khi sảy thai. Dữ liệu hình ảnh được thu thập bằng siêu âm 3D VR - kỹ thuật hiện đại, không xâm lấn, giúp đánh giá chính xác hơn hình thái thai.
Tuy nhiên, nghiên cứu bị giới hạn bởi cỡ mẫu nhỏ, thiếu dữ liệu di truyền, và độ tin cậy ngoài phòng khám còn hạn chế. Dù vậy, kỹ thuật này có thể mang lại giá trị trong việc tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho các cặp đôi có nguy cơ sảy thai sớm, và góp phần hiểu rõ hơn về cơ chế sinh học của sảy thai.
Kết luận
Sự phát triển hình thái thai, được thể hiện qua các giai đoạn Carnegie, bị chậm lại ở các thai kỳ sống kết thúc bằng sảy thai. Tuy nhiên, sự chậm trễ trong hình thái thai là độc lập với sự phát triển của thai. Trong tương lai, hình thái thai có thể được sử dụng như một tham số để ước tính khả năng thai kỳ sẽ tiếp tục đến khi sinh em bé khỏe mạnh. Điều này có tầm quan trọng vô cùng lớn đối với tất cả phụ nữ, đặc biệt là đối với những người có nguy cơ sảy thai tái diễn.
Tài liệu tham khảo: Pietersma CS, Mulders AGMGJ, Willemsen SP, Graafland N, Altena AC, Koning AHJ, de Bakker BS, Steegers EAP, Steegers-Theunissen RPM, Rousian M. Embryonic morphological development is delayed in pregnancies ending in a spontaneous miscarriage. Hum Reprod. 2023 May 2;38(5):820-829. doi: 10.1093/humrep/dead032. PMID: 36966733; PMCID: PMC10152166.
Giới thiệu
Khoảng 12-15% tổng số thai kỳ sống sẽ kết thúc bằng sảy thai. Nhiều yếu tố di truyền và môi trường đã được liên kết với sảy thai, nhưng nguyên nhân cơ bản vẫn chưa rõ trong gần 40% các trường hợp. Các kỹ thuật hình ảnh hiện đại gồm siêu âm 3D, sử dụng các đầu dò siêu âm qua âm đạo có độ phân giải cao và các kỹ thuật thực tế ảo có thể cung cấp cái nhìn mới mẻ về sự phát triển của thai kỳ, cho phép chúng ta nghiên cứu hình thái học phôi thai từ các thai kỳ sống tiếp tục đến khi sinh con, cũng như từ các thai kỳ sống dẫn đến sảy thai. Tuy nhiên, hiện nay chưa có dữ liệu về hình thái học phôi thai trong các thai kỳ sống cuối cùng kết thúc bằng sảy thai.
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá khả năng một thai kỳ sống sẽ kết thúc bằng sảy thai dựa trên các giai đoạn phát triển phôi thai.
Phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ từ năm 2010 đến 2018 trên 644 phụ nữ mang đơn thai, theo dõi đến 1 năm sau khi sinh. Sảy thai là thai kỳ không còn sống trước tuần thứ 22 của tuổi thai, được xác định bằng việc không có nhịp tim qua siêu âm trong thai kỳ sống đã được ghi nhận trước đó.
Các phụ nữ mang thai có thai kỳ đơn được đưa vào nghiên cứu và các lần siêu âm qua đường âm đạo ba chiều liên tiếp được thực hiện. Sự phát triển hình thái học phôi thai được đánh giá qua các giai đoạn phát triển theo tiêu chuẩn Carnegie và các kỹ thuật thực tế ảo. Hình thái học phôi thai được so sánh với các tham số tăng trưởng lâm sàng (ví dụ: chiều dài đầu mông (crown-rump length - CRL) và thể tích phôi thai (embryonic volume - EV)). Các mô hình hỗn hợp tuyến tính được sử dụng để đánh giá mối liên quan giữa sảy thai và các giai đoạn Carnegie (Mô hình 1). Hồi quy logistic với phương trình ước tính tổng quát được sử dụng để tính tỷ lệ sảy thai sau khi có sự trì hoãn ở các giai đoạn Carnegie. Các điều chỉnh được thực hiện cho các yếu tố gây nhiễu hoặc yếu tố đồng hành và bao gồm tuổi tác, số lần sinh và tình trạng hút thuốc (Mô hình 2).
Kết quả
Dữ liệu nghiên cứu có được 644 thai kỳ sống, trong đó 611 thai kỳ đang diễn tiến và 33 thai kỳ kết thúc bằng sảy thai, được đưa vào phân tích cuối cùng. Trong số 611 thai kỳ diễn tiến, có 1068 bộ dữ liệu siêu âm 3D để xác định các giai đoạn Carnegie. Trong số 33 thai kỳ sảy thai, có tổng cộng 59 bộ dữ liệu siêu âm 3D để xác định các giai đoạn Carnegie. Về đặc điểm đầu vào, có sự khác biệt đáng kể giữa các thai kỳ diễn tiến và các thai kỳ sảy thai về tuổi mẹ (32,5 so với 34,7 tuổi, p=0,01), tiền sử sảy thai tái diễn (16,8% so với 39,4%, p=0,001) và phương thức thụ thai (p=0,017).
Các giai đoạn Carnegie khác nhau giữa các thai kỳ diễn tiến và các thai kỳ sảy thai (p<0,001). So với một thai kỳ đang tiếp tục, thai kỳ sảy thai có liên quan đến điểm số giai đoạn Carnegie thấp hơn mong đợi trong Mô hình 1 (bCarnegie=-1,061, p<0,001) và trong Mô hình 2 (bCarnegie=-0,824, p<0,001).
So với một thai kỳ đang tiếp tục, thai kỳ sảy thai có liên quan đến CRL nhỏ hơn trong Mô hình 1 (bCRL=-0,273, p<0,001) và trong Mô hình 2 (bCRL=-0.120, p=0,049). Ngoài ra, EV nhỏ hơn trong các thai kỳ sảy thai, thể hiện qua chỉ số EV thấp hơn mong đợi trong Mô hình 1 (bEV=-0,122, p<0,001) và trong Mô hình 2 (bEV=-0,060,p=0,027).
Một phôi sống của thai kỳ sảy thai sẽ đạt được giai đoạn Carnegie cuối cùng với sự chậm trễ 4,0 ngày so với một thai kỳ đang tiếp tục. Các giai đoạn Carnegie của từng trường hợp dao động từ +3,1 ngày (tức là phát triển hình thái tiến triển) đến -7,8 ngày (tức là bị chậm). 48% các thai kỳ sảy thai (16 trường hợp), điểm phát triển hình thái đầu tiên, được phản ánh qua giai đoạn Carnegie, thấp hơn các thai kỳ diễn tiến. Sử dụng các phép đo lặp lại, khoảng một nửa số thai kỳ sảy thai thể hiện sự phát triển hình thái bình thường, trong khi phần còn lại phát triển chậm hoặc tiến triển sớm hơn các thai kỳ diễn tiến.
Sự chậm trễ trong giai đoạn Carnegie làm tăng tỷ lệ sảy thai 2,7% cho mỗi giai đoạn Carnegie bị chậm (ORCarnegie=1,027, p=0,004). Đối với Mô hình 2, tỷ lệ sảy thai tăng 1,5% cho mỗi giai đoạn Carnegie bị chậm (ORCarnegie=1,015, p=0,028).
Tỉ số nguy cơ (Hazard Ratio – HR) không cho thấy mối liên hệ giữa sự chậm trễ trong các giai đoạn Carnegie và khả năng sảy thai trong Mô hình 1 (HRCarnegie=1,180, p=0,130) nhưng không thể ước lượng cho mô hình đã điều chỉnh đầy đủ vì không thể đạt được sự hội tụ của mô hình.
Thảo luận
Đây là nghiên cứu đầu tiên theo dõi sự phát triển hình thái thai trong tử cung ở các trường hợp thai sống nhưng sau đó sảy thai, sử dụng hệ thống phân loại Carnegie. Kết quả cho thấy có sự khác biệt rõ rệt trong quá trình phát triển thai giữa thai kỳ diễn tiến và thai kỳ sảy thai. Cụ thể, các thai trong nhóm sảy thai bị trễ trung bình 4 ngày trong việc đạt đến giai đoạn phát triển hình thái cuối cùng theo Carnegie. Ngoài ra, sự phát triển thể chất của thai được đo bằng CRL và EV cũng thấp hơn trong nhóm sảy thai.
Mỗi sự chậm trễ một giai đoạn Carnegie có thể làm tăng nguy cơ sảy thai thêm 1,5%. Nghiên cứu còn xác định hai kiểu phát triển khác nhau: một nhóm có CRL nhỏ và phát triển chậm; nhóm còn lại có CRL bình thường nhưng sự phát triển hình thái lại bị trì hoãn về sau. Cả hai có thể đại diện cho những nguyên nhân sảy thai khác nhau, cần nghiên cứu sâu hơn.
Do chỉ chọn các thai còn sống từ tuần 7 trở đi, nên chưa thể loại trừ khả năng có sự phát triển nhanh bất thường trước khi sảy thai. Dữ liệu hình ảnh được thu thập bằng siêu âm 3D VR - kỹ thuật hiện đại, không xâm lấn, giúp đánh giá chính xác hơn hình thái thai.
Tuy nhiên, nghiên cứu bị giới hạn bởi cỡ mẫu nhỏ, thiếu dữ liệu di truyền, và độ tin cậy ngoài phòng khám còn hạn chế. Dù vậy, kỹ thuật này có thể mang lại giá trị trong việc tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho các cặp đôi có nguy cơ sảy thai sớm, và góp phần hiểu rõ hơn về cơ chế sinh học của sảy thai.
Kết luận
Sự phát triển hình thái thai, được thể hiện qua các giai đoạn Carnegie, bị chậm lại ở các thai kỳ sống kết thúc bằng sảy thai. Tuy nhiên, sự chậm trễ trong hình thái thai là độc lập với sự phát triển của thai. Trong tương lai, hình thái thai có thể được sử dụng như một tham số để ước tính khả năng thai kỳ sẽ tiếp tục đến khi sinh em bé khỏe mạnh. Điều này có tầm quan trọng vô cùng lớn đối với tất cả phụ nữ, đặc biệt là đối với những người có nguy cơ sảy thai tái diễn.
Tài liệu tham khảo: Pietersma CS, Mulders AGMGJ, Willemsen SP, Graafland N, Altena AC, Koning AHJ, de Bakker BS, Steegers EAP, Steegers-Theunissen RPM, Rousian M. Embryonic morphological development is delayed in pregnancies ending in a spontaneous miscarriage. Hum Reprod. 2023 May 2;38(5):820-829. doi: 10.1093/humrep/dead032. PMID: 36966733; PMCID: PMC10152166.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
Năm 2020
New World Saigon hotel, Thứ bảy ngày 14 . 6 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK