Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 02-05-2025 9:29am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
 
Tổng quan
Với vai trò là chất bổ sung trong IVF, inositol ngày càng được quan tâm với hy vọng nâng cao hiệu quả điều trị. Đây là một hợp chất có tự nhiên trong nhiều loại thực phẩm và là thành phần thiết yếu của nhóm vitamin B. Các nghiên cứu đã chỉ ra mối tương quan giữa mức độ inositol trong dịch nang và chất lượng của noãn. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy những phụ nữ có thai sau chuyển phôi có mức độ inositol trong dịch nang trứng cao hơn những phụ nữ không mang thai. Myo-inositol (Mi), một trong chín dạng inositol khác nhau, có thể được chuyển đổi thành inositolphosphoglycan trong cơ thể, hoạt động như một chất truyền tin thứ cấp liên quan đến quá trình truyền tín hiệu insulin, chủ yếu điều chỉnh quá trình hoạt hóa các chất vận chuyển và sử dụng glucose. Do đó, chức năng của nó như một chất làm nhạy cảm insulin được sử dụng để điều trị buồng trứng đa nang (PCOS – Polycystic ovary syndrome), trong đó kháng insulin là một trong những triệu chứng điển hình. Mặc dù các nghiên cứu được tiến hành để tìm hiểu hiệu quả của inositol đối với phụ nữ PCOS thực hiện tạo phôi thông qua phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) cho thấy không có sự cải thiện đáng kể nào về chất lượng noãn, phôi hoặc tỷ lệ mang thai. Việc sử dụng kết hợp d-chiro-inositol (DCI), một dạng inositol khác, vẫn chưa đưa ra kết luận chắc chắn, vì DCI được báo cáo là có tác dụng khác với Mi thậm chí có thể có tác động tiêu cực đến chất lượng noãn. Hơn nữa, Mi cũng được sử dụng ở những phụ nữ không mắc PCOS trong IVF, bao gồm cả những người đáp ứng bình thường và những người đáp ứng kém (POR – Poor ovary responder), vì nó đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của tế bào và truyền tín hiệu hormone kích thích nang noãn (FSH), liên quan đến sự trưởng thành noãn và sự phát triển của phôi.
 
Hiện tại, dữ liệu về hiệu quả điều trị của Mi ở phụ nữ vô sinh đang thực hiện IVF vẫn còn ít. Do đó, tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp này nhằm mục đích tổng quan và tóm tắt một cách có hệ thống các bằng chứng kiểm tra tác động của Mi đối với kết quả IVF để tối ưu hóa hơn nữa chiến lược điều trị lâm sàng.
 
Vật liệu và phương pháp
Trong bài đánh giá có hệ thống này, nhóm tác giả đã tìm kiếm các nghiên cứu được công bố trong hai thập kỷ qua cho đến tháng 7 năm 2024 trong các cơ sở dữ liệu sau: PubMed, Thư viện Cochrane, Web of Science, Science Direct và Cơ sở dữ liệu WANFANG. Các nghiên cứu được lựa chọn bao gồm thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên và các nghiên cứu quan sát có đối chứng so sánh kết quả IVF giữa liệu pháp bổ trợ Mi và chăm sóc thông thường hoặc giả dược. Tiêu chí đưa vào như sau: (1) Những người tham gia là nữ được chẩn đoán vô sinh, đang trải qua IVF hoặc ICSI. (2) Với liệu pháp bổ trợ Mi là sự khác biệt chính giữa nhóm nghiên cứu và nhóm đối chứng. Tiêu chí loại trừ: các nghiên cứu chỉ được công bố dưới dạng tóm tắt hoặc ấn phẩm lặp lại, cũng như các nghiên cứu sử dụng các biện pháp can thiệp đồng thời, ngoại trừ axit folic, vì tác dụng của axit folic (FA) đối với kết quả được cho là tối thiểu.
 
Kết quả
Mười một nghiên cứu đã được đưa vào đánh giá và phân tích tổng hợp này. Trong số đó, bảy nghiên cứu báo cáo kết quả IVF của nhóm Mi so với nhóm đối chứng ở những phụ nữ mắc PCOS, ba nghiên cứu báo cáo kết quả ở những phụ nữ POR và nghiên cứu còn lại báo cáo kết quả ở những người tham gia không mắc PCOS. Quy mô mẫu gộp là 981 (478 trong nhóm nghiên cứu và 503 trong nhóm đối chứng). Những người tham gia nghiên cứu chủ yếu đến từ Châu Âu, Trung Đông và Đông Á.
 
Tỉ lệ noãn thu nhận
Mười nghiên cứu báo cáo số lượng noãn thu được. Trong đó, sáu nghiên cứu liên quan đến nhóm PCOS, ba nghiên cứu liên quan đến nhóm POR và nghiên cứu còn lại liên quan đến những người tham gia không mắc PCOS. Việc gộp kết quả từ mười nghiên cứu không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng noãn thu được giữa nhóm Mi và nhóm đối chứng (MD=0,22, 95% KTC: -0,43-0,88; P=0,5). Trong khi đó, không có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê về số lượng noãn thu được ở nhóm Mi so với nhóm đối chứng đối với những người tham gia PCOS (MD=0,29, 95% KTC:-0,29-0,88; P=0,33). Ngoài ra, 5 nghiên cứu về PCOS báo cáo rằng phụ nữ tham gia không bị béo phì, phân tích tổng hợp cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về số lượng noãn thu được (MD=0,27, 95% KTC:-0,14-0,69; P=0,2). Dữ liệu đối với những phụ nữ POR cũng không cho thấy sự cải thiện đáng kể nào (MD=0,84, 95% KTC:-0,54-2,22; P=0,23). 
Tỉ lệ noãn trưởng thành
Mười nghiên cứu báo cáo tỉ lệ noãn MII cho thấy có ý nghĩa thống kê trong về tỉ lệ noãn trưởng thành ở nhóm Mi (OR=1,55, 95% KTC:1,04-2,31; P=0,03). Sáu nghiên cứu liên quan đến nhóm PCOS cho rằng có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ noãn MII sau khi sử dụng Mi (OR=1,97, 95% KTC:1,20-3,25; P<0,01) và sự cải thiện này cũng được thấy ở những phụ nữ không béo phì trong phân tích nhóm phụ (OR=1,92, 95% KTC:1,09-3,39; P=0,02). Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê nào được ghi nhận ở nhóm phụ POR (OR=0,97, 95% KTC:0,35-2,68; P=0,95).
Tỉ lệ thụ tinh
Chín nghiên cứu báo cáo tỉ lệ thụ tinh cho thấy sự cải thiện về mặt thống kê trong tỉ lệ thụ tinh ở nhóm Mi so với nhóm đối chứng (OR=1,62, 95% KTC:1,21-2,16; P<0,01). Năm nghiên cứu liên quan đến phân nhóm PCOS cũng cho kết quả tương tự (OR=1,59, 95% KTC:1,16-2,18; P<0,01). Kết quả này cũng được quan sát thấy ở những phụ nữ PCOS không béo phì (OR=1,84, 95% KTC:1,41-2,40; P<0,01). Tương tự như vậy, ba nghiên cứu liên quan đến nhóm phụ POR cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ thụ tinh giữa nhóm Mi và nhóm đối chứng (OR=2,42, 95% KTC:1,48-3,95; P<0,01).
Tỉ lệ phát triển phôi
Ba nghiên cứu so sánh tỉ lệ phôi phân chia chất lượng tốt giữa nhóm Mi và nhóm đối chứng đã được đưa vào phân tích. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm theo mô hình phân tích ngẫu nhiên (OR=1,54, 95% KTC:0,48-4,93; P=0,46). Chỉ có một nghiên cứu báo cáo về tỉ lệ phôi nang, cho thấy có 89 phôi nang được nuôi cấy từ 206 phôi phân chia.
Tỉ lệ làm tổ và thai lâm sàng
Ba nghiên cứu báo cáo về tỉ lệ làm tổ, nhưng chỉ có Lisi và cộng sự (2012) cung cấp dữ liệu thô, 21 trong số 112 (18,7%) phôi làm tổ trong nhóm bổ sung Mi. Trong hai nghiên cứu khác, tỉ lệ làm tổ là 7,94% và 10,8%.
Bốn nghiên cứu đã báo cáo tỉ lệ mang thai lâm sàng cho thấy không có sự cải thiện đáng kể về tỉ lệ mang thai lâm sàng sau khi dùng Mi (OR=1,53, 95% KTC:0,93-2,53; P=0,09).
 
Bàn luận
Ngày càng có nhiều bằng chứng ủng hộ việc sử dụng inositol trong sinh sản ở người, đặc biệt là đối với phụ nữ mắc PCOS, nhưng hiệu quả của nó đối với kết quả IVF vẫn chưa chắc chắn. Phân tích tổng hợp này phát hiện ra rằng điều trị trước bằng Mi có thể cải thiện tỉ lệ noãn MII ở những phụ nữ trải qua IVF. Sự cải thiện này vẫn tồn tại ở nhóm phụ PCOS cũng như những phụ nữ PCOS không béo phì, nhưng không có ở nhóm phụ POR. Ngoài ra, tác động tích cực đến tỉ lệ thụ tinh là nhất quán giữa các nhóm phụ PCOS, PCOS không béo phì và POR, mặc dù tỉ lệ phân chia, tỉ lệ phôi chất lượng cao hoặc thai lâm sàng không cải thiện đáng kể. 
 
Cần dựa theo kinh nghiệm cá nhân khi đưa ra quyết định lâm sàng về việc có nên sử dụng Mi hay không. Hơn nữa, cần tiến hành nghiên cứu lâm sàng và các thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên đa trung tâm mở rộng để đánh giá chế độ bổ sung và hiểu rõ hơn về cơ chế hoạt động, thiết lập cơ sở bằng chứng vững chắc hơn cho thực hành lâm sàng.
 
Nguồn: Zhang J, Zhang H, Zhou W, Jiang M, Lin X. Effect of myo-inositol supplementation in mixed ovarian response IVF cohort: a systematic review and meta-analysis. Front Endocrinol (Lausanne). 2025 Mar 21;16:1520362. doi: 10.3389/fendo.2025.1520362. PMID: 40190407; PMCID: PMC11968372.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK