CNHS. Lê Thị Mỹ Trinh – IVFMDTB
Giới thiệu:
Bảo quản lạnh mô buồng trứng (ovarian tissue cryopreservation - OTC) là kỹ thuật phẫu thuật lấy mô buồng trứng ra và làm đông lạnh. Phương pháp này đã trở thành một lựa chọn khả thi để bảo tồn khả năng sinh sản cho những phụ nữ không thể thực hiện bảo quản lạnh noãn hoặc phôi, thường là do cần bắt đầu sớm các liệu pháp gây độc cho tuyến sinh dục. Từ khi được đề xuất vào năm 1953, đến ứng dụng lâm sàng đầu tiên vào năm 1997 và ca sinh sống đầu tiên từ việc cấy ghép vào năm 2004, OTC kết hợp với kỹ thuật cấy ghép mô buồng trứng (ovarian tissue transplantation - OTT) đã được chứng minh là có thể khôi phục chức năng buồng trứng. OTT bao gồm quá trình rã đông và phẫu thuật cấy lại mô buồng trứng, có thể thực hiện trong vùng chậu hoặc ngoài vùng chậu. Những phụ nữ cần bắt đầu gấp các liệu pháp gây độc cho tuyến sinh dục sẽ không đủ điều kiện sử dụng các phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản đòi hỏi nhiều thời gian để gom noãn, do đó họ có thể cân nhắc OTC như một lựa chọn bảo tồn khả năng sinh sản. Các liệu pháp gây độc cho tuyến sinh dục có thể bao gồm hóa trị, xạ trị, ghép tủy xương và ghép tế bào gốc tạo máu. Các tình trạng y khoa cần thực hiện các liệu pháp này ngay lập tức bao gồm nhiều bệnh ác tính và lành tính, trong đó bệnh ác tính là nguyên nhân phổ biến nhất. Phụ nữ có các bệnh lý không ác tính, chẳng hạn như tình trạng tán huyết lành tính, các khối u buồng trứng lành tính hoặc giáp ranh, và các rối loạn tự miễn hoặc di truyền, cũng có thể được hưởng lợi từ OTC. Trên toàn thế giới, đã có hơn 189 trẻ sơ sinh được sinh ra từ những phụ nữ trải qua OTT sau OTC. Tuy nhiên, việc ứng dụng lâm sàng OTC tại Úc vẫn được ghi nhận rất ít. Tài liệu hiện có ở Úc chỉ giới hạn trong 2 báo cáo ca bệnh về phụ nữ đã thực hiện OTC kèm OTT; trong đó một trường hợp ghi nhận sinh sống, nhưng vẫn thiếu dữ liệu rộng hơn. Úc đã đóng vai trò then chốt trong sự phát triển của OTC, do đó, kết quả lâm sàng của nước này có ý nghĩa quan trọng và có thể áp dụng trên phạm vi toàn cầu.
Nghiên cứu này nhằm giải quyết khoảng trống thông tin nói trên bằng cách phân tích kết quả mang thai của các bệnh nhân tại Úc đã thực hiện OTC, với trọng tâm là những phụ nữ ở bang Victoria, Úc. Bằng cách xác định các yếu tố dự đoán khả năng mang thai thành công, bao gồm so sánh giữa những người đã tiến hành OTT và những người không thực hiện, nghiên cứu này có tiềm năng đóng góp đáng kể cho các chiến lược bảo tồn khả năng sinh sản trên toàn cầu. Úc tiếp tục giữ vai trò tiên phong trong nghiên cứu về OTC, do đó các phát hiện của nước này có ý nghĩa đối với thực hành lâm sàng rộng rãi ở phạm vi quốc tế.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu nhằm xác định kết quả mang thai của những phụ nữ đã thực hiện OTC tại một trung tâm hỗ trợ sinh sản ở bang Victoria, Úc.
Các kết cục phụ bao gồm so sánh kết quả mang thai giữa những phụ nữ thực hiện OTC và sau đó tiếp tục OTT với những người không tiếp tục, nghiên cứu các yếu tố như tuổi, OTT và bệnh ác tính như là những yếu tố dự đoán khả năng mang thai thành công, đồng thời ghi nhận tỷ lệ tử vong, kết quả chu sinh và sơ sinh.
Các trường hợp cấy ghép (transplant cases) được định nghĩa là những trường hợp thực hiện OTT sau OTC, trong khi các trường hợp không cấy ghép (nontransplant cases) được định nghĩa là những trường hợp không thực hiện OTT sau OTC.
Tiêu chuẩn nhận
-
Các phụ nữ trên 18 tuổi đã thực hiện OTC và/hoặc OTT
Tiêu chuẩn loại:
-
Các ca mang thai hộ
Phân tích thống kê
Các biến định tính được so sánh giữa nhóm phụ nữ thực hiện OTT và nhóm không thực hiện bằng phép kiểm chi bình phương hoặc kiểm định Fisher, tùy trường hợp. Giá trị P hai phía nhỏ hơn 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê.
Kết quả:
Tổng cộng có 593 phụ nữ thực hiện OTC, trong đó 48 người (8,1%) sau đó thực hiện OTT.
Kết quả cho thấy 65,7% (467/545) bệnh nhân không cấy ghép và 79,2% (38/48) bệnh nhân cấy ghép có chẩn đoán ung thư được chỉ định để thực hiện OTC. Ngoài ra, 53,9% (294/545) bệnh nhân không cấy ghép được ghi nhận vẫn còn mô buồng trứng trong kho bảo quản tại thời điểm nghiên cứu, trong khi ở nhóm bệnh nhân cấy ghép, con số này là 18,8% (9/48). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,001).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ tuổi trung bình khi thực hiện OTC giữa nhóm cấy ghép (trung bình 28,8 tuổi, SD = 6,3) và nhóm không cấy ghép (trung bình 27,0 tuổi, SD = 7,4) (P = 0,088).
Kết quả tử vong
Tổng cộng, 107 trên 593 phụ nữ (18,0%) trong nhóm nghiên cứu được báo cáo đã tử vong.
Trong nhóm bệnh nhân cấy ghép, chỉ 1 trên 48 người (2,1%) được báo cáo tử vong, so với 19,4% (106/545) ở nhóm không cấy ghép (P < 0,001). Có 6/107 bệnh nhân đã tử vong (5,6%) đã mang thai sau OTC.
Kết quả mang thai
Tỷ lệ mang thai thành công và sinh đủ tháng ở nhóm phụ nữ cấy ghép là 25,0% (12/48), so với 18,7% (102/545) ở nhóm không cấy ghép. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (95% KTC, 0,79–2,25, P = 0,290). Tổng cộng, 19,2% (114/593) phụ nữ được báo cáo mang thai sau OTC.
Kết quả chu sinh và sơ sinh thứ cấp:
Có 14 ca mang thai ở 12/48 phụ nữ (25,0%) thực hiện OTT, so với 169 ca mang thai ở 102/545 phụ nữ (18,7%) không thực hiện OTT. Các kết quả được trình bày trong bảng 1.
Chỉ số |
Nhóm cấy ghép (OTT) |
Nhóm không cấy ghép |
P value |
Ghi chú |
Số phụ nữ mang thai |
12/48 (25,0%) |
102/545 (18,7%) |
– |
14 ca mang thai ở nhóm OTT, 169 ca ở nhóm không OTT |
Đơn thai |
13/14 (92,9%) |
161/169 (95,3%) |
0,500 |
|
Song thai |
1/14 (7,1%) |
8/169 (4,7%) |
– |
|
Chấm dứt thai kỳ |
0 |
14 |
>0,900 |
|
Sảy thai |
0 |
36 |
0,700 |
|
Thai ngoài tử cung |
0 |
5 |
>0,900 |
|
Sử dụng ART bổ sung (VD: IVF) |
12/14 (85,7%) |
12/169 (7,1%) |
<0,001 |
|
Trẻ sơ sinh sinh ra sau OTC |
15 |
177 |
– |
Tổng cộng 183 trẻ |
Trẻ sinh sống |
15/15 (100%) |
167/168 (99,4%) |
>0,900 |
1 ca thai chết lưu ở nhóm không OTT |
Giới tính trẻ sơ sinh |
Nam: 40,0% |
Nam: 57,1% |
0,044 |
|
Cân nặng trung vị (g) |
3320 g |
3300 g |
0,75 |
|
Tuổi thai trung vị |
38 tuần |
38 tuần |
>0,900 |
|
Điểm Apgar phút 1 |
9 |
9 |
0,85 |
|
Điểm Apgar phút 5 |
9 |
9 |
>0,900 |
|
Nhập SCN |
2/9 (22,2%) |
33/177 (18,6%) |
– |
|
Nhập NICU |
0 |
13/177 (7,1%) |
– |
|
Không báo cáo SCN/NICU |
2/9 (22,3%) |
4/177 (2,3%) |
– |
|
Bảng 1. Kết quả chu sinh và sơ sinh thứ cấp ở 2 nhóm
Kết luận
Cứ 5 phụ nữ thực hiện OTC thì có 1 người sinh con sống, dù có hoặc không tái ghép mô buồng trứng, trong đó việc ghép lại có thể làm tăng khả năng mang thai. Dưới 1/10 phụ nữ thực hiện OTC tiến hành ghép lại mô buồng trứng. Những phát hiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố tuổi, tình trạng u ác tính và mong muốn mang thai trong khi tư vấn về khả năng sinh sản, đồng thời cung cấp những thông tin giá trị cho phụ nữ đang cân nhắc lựa chọn OTC như một phương án bảo tồn khả năng sinh sản.
Tài liệu tham khảo: Pregnancy outcomes following ovarian tissue cryopreservation: an Australian cohort study, Finkelstein, Tara et al, American Journal of Obstetrics & Gynecology, Volume 233, Issue 2, 108.e1 - 108.e11











Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025
Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...
Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...

Sách “Bài giảng Thực hành Sản khoa” do các giảng viên Bộ ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...