Tin tức
on Sunday 25-08-2024 6:10am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Đỗ Lê Đình Thiện - IVFMD Phú Nhuận.
Số lượng chu kỳ được thực hiện với mục đích là lưu trữ noãn hoặc phôi để sử dụng sau này đã tăng gấp 20 lần trong thời gian gần đây, từ khoảng 5.000 chu kỳ vào năm 2005 lên tới 105.000 chu kỳ vào năm 2016. Hơn nữa, gần 15% các chu kỳ điều trị bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology – ART) sử dụng phôi từ noãn của người hiến được tạo ra từ noãn đông lạnh. Việc tăng cường sử dụng và thành công của kỹ thuật đông lạnh noãn chủ yếu là do việc áp dụng rộng rãi kỹ thuật "thủy tinh hóa" nhanh thay vì phương pháp "đông lạnh chậm". Việc áp dụng công nghệ này đã được chứng minh là có thể bảo vệ noãn một cách tốt hơn bằng cách ngăn ngừa sự hình thành các tinh thể đá.
Do đó, Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ vào năm 2013 đã khuyến nghị rằng việc bảo quản noãn bằng cách đông lạnh không còn được coi là thử nghiệm nữa. Bằng cách áp dụng công nghệ mới này vào việc đông lạnh noãn đã giúp cho phụ nữ có thể duy trì khả năng sinh sản của mình, ngay cả khi không có bạn đời, hoặc vì lý do tự nguyện lẫn y tế. Điều này cũng dẫn đến các lựa chọn mới cho việc hiến tặng noãn, bao gồm việc phát triển các ngân hàng noãn từ người hiến. Các phòng thí nghiệm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) có kinh nghiệm sâu rộng trong việc thủy tinh hóa noãn đã báo cáo tỷ lệ sống sót sau rã đông lên tới 80%-90%. Mặc dù nhóm nghiên cứu đã thấy được thành công ngày càng tăng với kỹ thuật thủy tinh hóa và rã đông noãn, và ngày càng có nhiều chu kỳ được thực hiện với mục đích lưu trữ noãn đông lạnh, vẫn còn nhiều câu hỏi về tác động của thủy tinh hóa đối với noãn đông lạnh đến kết quả mang thai và sơ sinh so với noãn tươi.
Mặc dù có ít dữ liệu về kết quả sơ sinh giữa noãn tươi và noãn đông lạnh, nhưng có nhiều dữ liệu hơn về kết quả của việc chuyển phôi tươi (fresh embryo transfer - ET) so với phôi đông lạnh (frozen embryo transfer - FET). Cả nghiên cứu quan sát và thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng đều cho thấy tăng nguy cơ tiền sản giật (Pre-eclampsia) cũng như trẻ sơ sinh lớn hơn tuổi thai và/hoặc bệnh thai to (macrosomia) sau FET so với ET. Trong khi đó, ET được báo cáo là có liên quan đến tỷ lệ sinh non và trẻ sơ sinh nhẹ cân cao hơn. Mặc dù những kết quả quan sát này có thể phần nào bị ảnh hưởng do sự khác biệt trong môi trường nội mạc tử cung sau FET so với ET, tác động của thủy tinh hóa lên phôi hoặc noãn vẫn chưa rõ ràng. Một nghiên cứu quy mô lớn trên toàn dân không phát hiện sự khác biệt về kết quả sơ sinh giữa noãn tươi và noãn đông lạnh từ người hiến, bao gồm sinh non, nhẹ cân, và dị tật bẩm sinh. Tuy nhiên, tài liệu hiện có bị hạn chế chỉ với noãn từ người hiến và loại trừ các chu kỳ tự thân.
Do đó, vẫn còn những câu hỏi xoay quanh việc đông lạnh noãn: liệu việc đông lạnh noãn có ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng và kết quả sơ sinh không, và những kết quả này có tương tự trong các chu kỳ sử dụng noãn đông lạnh từ người hiến và từ tự thân không? Mục tiêu của nhóm nghiên cứu là trả lời một cách hệ thống các câu hỏi này bằng cách sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia lớn với hai phân tích riêng biệt về ET: kết quả từ noãn tự thân tươi so với noãn đông lạnh và kết quả từ noãn hiến tặng tươi so với noãn đông lạnh. Việc kiểm tra cả hai phân tích cho phép đánh giá tác động của việc đông lạnh noãn lên kết quả lâm sàng và kết quả sơ sinh trong quần thể chung (noãn tự thân), khi mà việc chuẩn bị nội mạc tử cung được cho là khác nhau giữa hai nhóm, cũng như trong một quần thể có tiên lượng tốt (noãn từ người hiến) với sự chuẩn bị tử cung đồng nhất trong cả hai nhóm. Giả thuyết của nhóm đưa ra là việc đông lạnh noãn ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng và kết quả sơ sinh của phôi được tạo ra từ noãn đông lạnh trong cả noãn tự thân và noãn được hiến tặng sau ET.
Phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở dữ liệu của Hệ thống báo cáo kết quả của Hiệp hội các Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản (SART CORS) từ năm 2014 đến 2015 đã được sử dụng để xác định tất cả các chu kỳ chuyển phôi tươi trong khoảng thời gian này.
Các chu kỳ ET tươi trong nghiên cứu này bao gồm các phôi được tạo ra từ cả noãn tự thân tươi và đông lạnh cũng như từ noãn hiến tặng tươi và đông lạnh. Các chu kỳ FET và các chu kỳ phôi hiến tặng đều bị loại trừ.
Đặc điểm nền:
Dữ liệu về đặc điểm nền bao gồm tuổi mẹ, chỉ số khối cơ thể (BMI), tình trạng hút thuốc, số lần mang thai trước đó, chẩn đoán vô sinh, số lần thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm trước đó, tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI), sử dụng hỗ trợ phôi thoát màng, và số lượng phôi được chuyển.
Kết cục chính của nghiên cứu là tỷ lệ sinh sống (LB). Các kết cục phụ bao gồm kết quả mang thai như tỷ lệ thai lâm sàng, sẩy thai lâm sàng, sẩy thai sinh hóa và đa thai, và cân nặng khi sinh bao gồm trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh thấp (<2.500g), trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh bình thường (≥2.500g và ≤3.999g) và trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh cao (>4.000g).
Kết quả nghiên cứu:
Tổng cộng có 154.706 chu kỳ được xác định trong cơ sở dữ liệu SART CORS sử dụng phôi được tạo ra từ noãn tươi hoặc đông lạnh và chuyển phôi tươi trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2015.
Chu kỳ noãn tự thân (Autologous oocyte cycles):
Trong số này, có 139.734 chu kỳ sử dụng noãn tự thân và 14.972 chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng để chuyển.
Hơn 99% (139.181) các chu kỳ noãn tự thân sử dụng noãn tươi, nhưng cũng có 553 chu kỳ sử dụng phôi được tạo ra từ noãn tự thân đông lạnh. Những phụ nữ sử dụng noãn tự thân đông lạnh thường lớn tuổi hơn và có chỉ số BMI thấp hơn so với những người sử dụng noãn tự thân tươi (tuổi: 38,6 ± 5,2 năm [noãn đông lạnh] so với 35 ± 4,7 năm [noãn tươi], BMI: 23,9 ± 4,9 kg/m² [noãn đông lạnh] so với 25,6 ± 5,7 kg/m² [noãn tươi]). Chẩn đoán vô sinh phổ biến nhất đối với những phụ nữ trải qua chuyển phôi từ noãn tự thân đông lạnh là giảm dự trữ buồng trứng (35,1%) và lý do khác (37,1%), trong khi chẩn đoán phổ biến nhất đối với những phụ nữ thực hiện chuyển phôi từ noãn tự thân tươi là yếu tố nam giới (35,4%). Số phôi trung bình được chuyển là 1,9 ± 0,9 (noãn đông lạnh) so với 1,8 ± 0,8 (noãn tươi). Tỷ lệ chuyển phôi đơn chọn lọc (eSET) thấp hơn trong các chu kỳ sử dụng noãn tự thân đông lạnh so với noãn tươi (53,8% so với 73,7%).
Kết quả lâm sàng:
Noãn tự thân:
Không có sự khác biệt về tỷ lệ sinh sống (LB) sau khi chuyển phôi tươi ở phôi được tạo ra từ noãn đông lạnh so với noãn tươi trong các chu kỳ tự thân (23,9% [noãn đông lạnh] so với 25,7% [noãn tươi], aRR=0,93, 95% KTC 0,79–1,09). Không có sự khác biệt về các kết quả mang thai khác giữa phôi được tạo ra từ noãn đông lạnh so với noãn tươi trong các chu kỳ tự thân, bao gồm tỷ lệ mang thai lâm sàng (28,2% [noãn đông lạnh] so với 31% [noãn tươi], aRR=0,91, 95% KTC 0,79–1,04), tỷ lệ sẩy thai lâm sàng (11,2% [noãn đông lạnh] so với 10,9% [noãn tươi], aRR 1,03, 95% KTC 0,81–1,31), và tỷ lệ sẩy thai sinh hóa (6,9% [noãn đông lạnh] so với 5,8% [noãn tươi], aRR=1,28, 95% KTC 0,93–1,76).
Tuy nhiên, quan sát thấy tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng lớn hơn 4.000g cao hơn sau khi chuyển phôi từ phôi được tạo ra từ noãn tự thân đông lạnh so với noãn tươi (12,5% [noãn đông lạnh] so với 4,5% [noãn tươi], aRR 2,67, 95% KTC 1,65–4,3). Điều này vẫn đúng khi mẫu được giới hạn ở các trường hợp mang thai đơn (17,3% [noãn đông lạnh] so với 7,1% [noãn tươi], aRR 2,77, 95% KTC 1,74–4,42). Không có sự khác biệt nào về tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân giữa noãn tự thân đông lạnh và noãn tươi tổng thể (20,4% [noãn đông lạnh] so với 28,4% [noãn tươi], aRR 0,92, 95% KTC 0,65–1,31) và khi chỉ giới hạn ở các trường hợp mang thai đơn (10% [noãn đông lạnh] so với 9,9% [noãn tươi], aRR 1,13, 95% KTC 0,56–2,27).
Chu kỳ noãn hiến tặng và người nhận mong muốn (Donor oocyte and intended recipient cycles):
Phân tích thứ hai của nhóm nghiên cứu đã xem xét các noãn hiến tặng đông lạnh so với tươi với các phôi tươi được chuyển vào người nhận mong muốn. Trong số 14.972 chu kỳ noãn hiến tặng được phân tích, 11.482 (77%) sử dụng phôi được tạo ra từ noãn hiến tặng tươi và 3.490 (23%) chu kỳ sử dụng phôi được tạo ra từ noãn hiến tặng đông lạnh. Tuổi trung bình của người hiến noãn là tương tự trong cả hai nhóm (26 ± 3,2 [noãn đông lạnh] so với 26,4 ± 3,7 [noãn tươi]). Tuổi trung bình của người nhận mong muốn cũng tương tự giữa hai nhóm (41,9 ± 4,8 [noãn đông lạnh] so với 41,2 ± 5,6 [noãn tươi]). Chỉ số BMI trung bình của người nhận mong muốn cũng hơi cao hơn ở những người sử dụng noãn đông lạnh (26,9 ± 5,6 kg/m² [noãn đông lạnh] so với 25,6 ± 5,4 kg/m² [noãn tươi]). Chẩn đoán vô sinh phổ biến nhất đối với người nhận mong muốn ở cả hai nhóm là giảm dự trữ buồng trứng (83,7% [noãn đông lạnh] so với 75,8% [noãn tươi]). Số phôi trung bình được chuyển là 1,5 ± 0,5 [noãn đông lạnh] so với 1,6 ± 0,5 [noãn tươi]. Một tỷ lệ nhỏ hơn của các chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng đông lạnh đã sử dụng eSET (79,7% [noãn đông lạnh] so với 91,2% [noãn tươi]).
Kết quả lâm sàng: Trứng hiến tặng (Clinical outcomes: Donor oocytes):
Trong các mô hình chưa điều chỉnh, không có sự khác biệt đáng kể về khả năng sinh sống (LB) được ghi nhận khi sử dụng noãn hiến tặng đông lạnh so với noãn hiến tặng tươi (aRR=1,02, 95% KTC 0,98–1,07). Sau khi điều chỉnh mô hình các yếu tố tuổi mẹ, BMI, tình trạng hút thuốc, số lần sinh trước đó, chẩn đoán vô sinh, số lượng phôi được chuyển, và xét nghiệm di truyền tiền làm tổ, khả năng sinh sống giảm với noãn hiến tặng đông lạnh ở tất cả các trường hợp mang thai (aRR=0,81, 95% KTC 0,77–0,85) so với noãn hiến tặng tươi.
Tương tự, tỷ lệ mang thai lâm sàng giảm sau khi chuyển phôi tươi sử dụng noãn hiến tặng đông lạnh so với noãn hiến tặng tươi trong các mô hình đã điều chỉnh (51% [noãn đông lạnh] so với 48% [noãn tươi], aRR=0,83, 95% KTC 0,8–0,87). Ngoài ra, tỷ lệ sẩy thai sinh hóa tăng ở các chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng đông lạnh (8,6% [noãn đông lạnh] so với 5,6% [noãn tươi], aRR=1,22, 95% KTC 1,05–1,43). Tỷ lệ sẩy thai lâm sàng cao hơn khi sử dụng noãn đông lạnh so với noãn tươi (17,4% [noãn đông lạnh] so với 12,6% [noãn tươi], aRR=1,07, 95% KTC 0,97–1,19) tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê.
Tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng cao hơn tuổi thai sau khi chuyển phôi cao hơn đáng kể ở noãn hiến tặng đông lạnh so với noãn hiến tặng tươi (6,2% [noãn đông lạnh] so với 4,6% [noãn tươi], aRR=1,42, 95% KTC 1,1–1,83); kết quả này vẫn tồn tại khi chỉ giới hạn ở các trường hợp mang thai đơn (9,4% [noãn đông lạnh] so với 7,8% [noãn tươi], aRR=1,38, 95% KTC 1,07–1,77). Không có sự khác biệt nào được ghi nhận ở tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân tổng thể (29,5% [noãn đông lạnh] so với 32,9% [noãn tươi], aRR=1,03, 95% KTC 0,94–1,12) hoặc chỉ giới hạn ở các trường hợp mang thai đơn (12,6% [noãn đông lạnh] so với 11,8% [noãn tươi], aRR=1,15, 95% KTC 0,94–1,41).
Kết luận:
Kết quả của nghiên cứu này về sự gia tăng tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng lớn sau khi chuyển phôi từ noãn đông lạnh trong cả các chu kỳ tự thân và từ người hiến nêu lên những câu hỏi quan trọng về quá trình thủy tinh hóa noãn và cần được nghiên cứu thêm. Điều này không thể hoàn toàn được giải thích bởi sự khác biệt trong môi trường nội mạc tử cung. Nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào việc cải thiện tỷ lệ sinh sống khi sử dụng noãn đông lạnh từ người hiến, với hy vọng rằng điều này sẽ cung cấp cho các bác sĩ thông tin cần thiết để đưa ra các tư vấn và chăm sóc cá nhân hóa cho bệnh nhân về tiên lượng của họ.
Nguồn: Burks, C. A., Purdue-Smithe, A., DeVilbiss, E., Mumford, S., & Weinerman, R. (2023). Frozen autologous and donor oocytes are associated with differences in clinical and neonatal outcomes compared with fresh oocytes: a Society for Assisted Reproductive Technology Clinic Outcome Reporting System Analysis. F&S reports, 5(1), 40–46.
Số lượng chu kỳ được thực hiện với mục đích là lưu trữ noãn hoặc phôi để sử dụng sau này đã tăng gấp 20 lần trong thời gian gần đây, từ khoảng 5.000 chu kỳ vào năm 2005 lên tới 105.000 chu kỳ vào năm 2016. Hơn nữa, gần 15% các chu kỳ điều trị bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology – ART) sử dụng phôi từ noãn của người hiến được tạo ra từ noãn đông lạnh. Việc tăng cường sử dụng và thành công của kỹ thuật đông lạnh noãn chủ yếu là do việc áp dụng rộng rãi kỹ thuật "thủy tinh hóa" nhanh thay vì phương pháp "đông lạnh chậm". Việc áp dụng công nghệ này đã được chứng minh là có thể bảo vệ noãn một cách tốt hơn bằng cách ngăn ngừa sự hình thành các tinh thể đá.
Do đó, Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ vào năm 2013 đã khuyến nghị rằng việc bảo quản noãn bằng cách đông lạnh không còn được coi là thử nghiệm nữa. Bằng cách áp dụng công nghệ mới này vào việc đông lạnh noãn đã giúp cho phụ nữ có thể duy trì khả năng sinh sản của mình, ngay cả khi không có bạn đời, hoặc vì lý do tự nguyện lẫn y tế. Điều này cũng dẫn đến các lựa chọn mới cho việc hiến tặng noãn, bao gồm việc phát triển các ngân hàng noãn từ người hiến. Các phòng thí nghiệm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) có kinh nghiệm sâu rộng trong việc thủy tinh hóa noãn đã báo cáo tỷ lệ sống sót sau rã đông lên tới 80%-90%. Mặc dù nhóm nghiên cứu đã thấy được thành công ngày càng tăng với kỹ thuật thủy tinh hóa và rã đông noãn, và ngày càng có nhiều chu kỳ được thực hiện với mục đích lưu trữ noãn đông lạnh, vẫn còn nhiều câu hỏi về tác động của thủy tinh hóa đối với noãn đông lạnh đến kết quả mang thai và sơ sinh so với noãn tươi.
Mặc dù có ít dữ liệu về kết quả sơ sinh giữa noãn tươi và noãn đông lạnh, nhưng có nhiều dữ liệu hơn về kết quả của việc chuyển phôi tươi (fresh embryo transfer - ET) so với phôi đông lạnh (frozen embryo transfer - FET). Cả nghiên cứu quan sát và thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng đều cho thấy tăng nguy cơ tiền sản giật (Pre-eclampsia) cũng như trẻ sơ sinh lớn hơn tuổi thai và/hoặc bệnh thai to (macrosomia) sau FET so với ET. Trong khi đó, ET được báo cáo là có liên quan đến tỷ lệ sinh non và trẻ sơ sinh nhẹ cân cao hơn. Mặc dù những kết quả quan sát này có thể phần nào bị ảnh hưởng do sự khác biệt trong môi trường nội mạc tử cung sau FET so với ET, tác động của thủy tinh hóa lên phôi hoặc noãn vẫn chưa rõ ràng. Một nghiên cứu quy mô lớn trên toàn dân không phát hiện sự khác biệt về kết quả sơ sinh giữa noãn tươi và noãn đông lạnh từ người hiến, bao gồm sinh non, nhẹ cân, và dị tật bẩm sinh. Tuy nhiên, tài liệu hiện có bị hạn chế chỉ với noãn từ người hiến và loại trừ các chu kỳ tự thân.
Do đó, vẫn còn những câu hỏi xoay quanh việc đông lạnh noãn: liệu việc đông lạnh noãn có ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng và kết quả sơ sinh không, và những kết quả này có tương tự trong các chu kỳ sử dụng noãn đông lạnh từ người hiến và từ tự thân không? Mục tiêu của nhóm nghiên cứu là trả lời một cách hệ thống các câu hỏi này bằng cách sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia lớn với hai phân tích riêng biệt về ET: kết quả từ noãn tự thân tươi so với noãn đông lạnh và kết quả từ noãn hiến tặng tươi so với noãn đông lạnh. Việc kiểm tra cả hai phân tích cho phép đánh giá tác động của việc đông lạnh noãn lên kết quả lâm sàng và kết quả sơ sinh trong quần thể chung (noãn tự thân), khi mà việc chuẩn bị nội mạc tử cung được cho là khác nhau giữa hai nhóm, cũng như trong một quần thể có tiên lượng tốt (noãn từ người hiến) với sự chuẩn bị tử cung đồng nhất trong cả hai nhóm. Giả thuyết của nhóm đưa ra là việc đông lạnh noãn ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng và kết quả sơ sinh của phôi được tạo ra từ noãn đông lạnh trong cả noãn tự thân và noãn được hiến tặng sau ET.
Phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở dữ liệu của Hệ thống báo cáo kết quả của Hiệp hội các Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản (SART CORS) từ năm 2014 đến 2015 đã được sử dụng để xác định tất cả các chu kỳ chuyển phôi tươi trong khoảng thời gian này.
Các chu kỳ ET tươi trong nghiên cứu này bao gồm các phôi được tạo ra từ cả noãn tự thân tươi và đông lạnh cũng như từ noãn hiến tặng tươi và đông lạnh. Các chu kỳ FET và các chu kỳ phôi hiến tặng đều bị loại trừ.
Đặc điểm nền:
Dữ liệu về đặc điểm nền bao gồm tuổi mẹ, chỉ số khối cơ thể (BMI), tình trạng hút thuốc, số lần mang thai trước đó, chẩn đoán vô sinh, số lần thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm trước đó, tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI), sử dụng hỗ trợ phôi thoát màng, và số lượng phôi được chuyển.
Kết cục chính của nghiên cứu là tỷ lệ sinh sống (LB). Các kết cục phụ bao gồm kết quả mang thai như tỷ lệ thai lâm sàng, sẩy thai lâm sàng, sẩy thai sinh hóa và đa thai, và cân nặng khi sinh bao gồm trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh thấp (<2.500g), trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh bình thường (≥2.500g và ≤3.999g) và trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh cao (>4.000g).
Kết quả nghiên cứu:
Tổng cộng có 154.706 chu kỳ được xác định trong cơ sở dữ liệu SART CORS sử dụng phôi được tạo ra từ noãn tươi hoặc đông lạnh và chuyển phôi tươi trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2015.
Chu kỳ noãn tự thân (Autologous oocyte cycles):
Trong số này, có 139.734 chu kỳ sử dụng noãn tự thân và 14.972 chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng để chuyển.
Hơn 99% (139.181) các chu kỳ noãn tự thân sử dụng noãn tươi, nhưng cũng có 553 chu kỳ sử dụng phôi được tạo ra từ noãn tự thân đông lạnh. Những phụ nữ sử dụng noãn tự thân đông lạnh thường lớn tuổi hơn và có chỉ số BMI thấp hơn so với những người sử dụng noãn tự thân tươi (tuổi: 38,6 ± 5,2 năm [noãn đông lạnh] so với 35 ± 4,7 năm [noãn tươi], BMI: 23,9 ± 4,9 kg/m² [noãn đông lạnh] so với 25,6 ± 5,7 kg/m² [noãn tươi]). Chẩn đoán vô sinh phổ biến nhất đối với những phụ nữ trải qua chuyển phôi từ noãn tự thân đông lạnh là giảm dự trữ buồng trứng (35,1%) và lý do khác (37,1%), trong khi chẩn đoán phổ biến nhất đối với những phụ nữ thực hiện chuyển phôi từ noãn tự thân tươi là yếu tố nam giới (35,4%). Số phôi trung bình được chuyển là 1,9 ± 0,9 (noãn đông lạnh) so với 1,8 ± 0,8 (noãn tươi). Tỷ lệ chuyển phôi đơn chọn lọc (eSET) thấp hơn trong các chu kỳ sử dụng noãn tự thân đông lạnh so với noãn tươi (53,8% so với 73,7%).
Kết quả lâm sàng:
Noãn tự thân:
Không có sự khác biệt về tỷ lệ sinh sống (LB) sau khi chuyển phôi tươi ở phôi được tạo ra từ noãn đông lạnh so với noãn tươi trong các chu kỳ tự thân (23,9% [noãn đông lạnh] so với 25,7% [noãn tươi], aRR=0,93, 95% KTC 0,79–1,09). Không có sự khác biệt về các kết quả mang thai khác giữa phôi được tạo ra từ noãn đông lạnh so với noãn tươi trong các chu kỳ tự thân, bao gồm tỷ lệ mang thai lâm sàng (28,2% [noãn đông lạnh] so với 31% [noãn tươi], aRR=0,91, 95% KTC 0,79–1,04), tỷ lệ sẩy thai lâm sàng (11,2% [noãn đông lạnh] so với 10,9% [noãn tươi], aRR 1,03, 95% KTC 0,81–1,31), và tỷ lệ sẩy thai sinh hóa (6,9% [noãn đông lạnh] so với 5,8% [noãn tươi], aRR=1,28, 95% KTC 0,93–1,76).
Tuy nhiên, quan sát thấy tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng lớn hơn 4.000g cao hơn sau khi chuyển phôi từ phôi được tạo ra từ noãn tự thân đông lạnh so với noãn tươi (12,5% [noãn đông lạnh] so với 4,5% [noãn tươi], aRR 2,67, 95% KTC 1,65–4,3). Điều này vẫn đúng khi mẫu được giới hạn ở các trường hợp mang thai đơn (17,3% [noãn đông lạnh] so với 7,1% [noãn tươi], aRR 2,77, 95% KTC 1,74–4,42). Không có sự khác biệt nào về tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân giữa noãn tự thân đông lạnh và noãn tươi tổng thể (20,4% [noãn đông lạnh] so với 28,4% [noãn tươi], aRR 0,92, 95% KTC 0,65–1,31) và khi chỉ giới hạn ở các trường hợp mang thai đơn (10% [noãn đông lạnh] so với 9,9% [noãn tươi], aRR 1,13, 95% KTC 0,56–2,27).
Chu kỳ noãn hiến tặng và người nhận mong muốn (Donor oocyte and intended recipient cycles):
Phân tích thứ hai của nhóm nghiên cứu đã xem xét các noãn hiến tặng đông lạnh so với tươi với các phôi tươi được chuyển vào người nhận mong muốn. Trong số 14.972 chu kỳ noãn hiến tặng được phân tích, 11.482 (77%) sử dụng phôi được tạo ra từ noãn hiến tặng tươi và 3.490 (23%) chu kỳ sử dụng phôi được tạo ra từ noãn hiến tặng đông lạnh. Tuổi trung bình của người hiến noãn là tương tự trong cả hai nhóm (26 ± 3,2 [noãn đông lạnh] so với 26,4 ± 3,7 [noãn tươi]). Tuổi trung bình của người nhận mong muốn cũng tương tự giữa hai nhóm (41,9 ± 4,8 [noãn đông lạnh] so với 41,2 ± 5,6 [noãn tươi]). Chỉ số BMI trung bình của người nhận mong muốn cũng hơi cao hơn ở những người sử dụng noãn đông lạnh (26,9 ± 5,6 kg/m² [noãn đông lạnh] so với 25,6 ± 5,4 kg/m² [noãn tươi]). Chẩn đoán vô sinh phổ biến nhất đối với người nhận mong muốn ở cả hai nhóm là giảm dự trữ buồng trứng (83,7% [noãn đông lạnh] so với 75,8% [noãn tươi]). Số phôi trung bình được chuyển là 1,5 ± 0,5 [noãn đông lạnh] so với 1,6 ± 0,5 [noãn tươi]. Một tỷ lệ nhỏ hơn của các chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng đông lạnh đã sử dụng eSET (79,7% [noãn đông lạnh] so với 91,2% [noãn tươi]).
Kết quả lâm sàng: Trứng hiến tặng (Clinical outcomes: Donor oocytes):
Trong các mô hình chưa điều chỉnh, không có sự khác biệt đáng kể về khả năng sinh sống (LB) được ghi nhận khi sử dụng noãn hiến tặng đông lạnh so với noãn hiến tặng tươi (aRR=1,02, 95% KTC 0,98–1,07). Sau khi điều chỉnh mô hình các yếu tố tuổi mẹ, BMI, tình trạng hút thuốc, số lần sinh trước đó, chẩn đoán vô sinh, số lượng phôi được chuyển, và xét nghiệm di truyền tiền làm tổ, khả năng sinh sống giảm với noãn hiến tặng đông lạnh ở tất cả các trường hợp mang thai (aRR=0,81, 95% KTC 0,77–0,85) so với noãn hiến tặng tươi.
Tương tự, tỷ lệ mang thai lâm sàng giảm sau khi chuyển phôi tươi sử dụng noãn hiến tặng đông lạnh so với noãn hiến tặng tươi trong các mô hình đã điều chỉnh (51% [noãn đông lạnh] so với 48% [noãn tươi], aRR=0,83, 95% KTC 0,8–0,87). Ngoài ra, tỷ lệ sẩy thai sinh hóa tăng ở các chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng đông lạnh (8,6% [noãn đông lạnh] so với 5,6% [noãn tươi], aRR=1,22, 95% KTC 1,05–1,43). Tỷ lệ sẩy thai lâm sàng cao hơn khi sử dụng noãn đông lạnh so với noãn tươi (17,4% [noãn đông lạnh] so với 12,6% [noãn tươi], aRR=1,07, 95% KTC 0,97–1,19) tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê.
Tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng cao hơn tuổi thai sau khi chuyển phôi cao hơn đáng kể ở noãn hiến tặng đông lạnh so với noãn hiến tặng tươi (6,2% [noãn đông lạnh] so với 4,6% [noãn tươi], aRR=1,42, 95% KTC 1,1–1,83); kết quả này vẫn tồn tại khi chỉ giới hạn ở các trường hợp mang thai đơn (9,4% [noãn đông lạnh] so với 7,8% [noãn tươi], aRR=1,38, 95% KTC 1,07–1,77). Không có sự khác biệt nào được ghi nhận ở tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân tổng thể (29,5% [noãn đông lạnh] so với 32,9% [noãn tươi], aRR=1,03, 95% KTC 0,94–1,12) hoặc chỉ giới hạn ở các trường hợp mang thai đơn (12,6% [noãn đông lạnh] so với 11,8% [noãn tươi], aRR=1,15, 95% KTC 0,94–1,41).
Kết luận:
Kết quả của nghiên cứu này về sự gia tăng tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng lớn sau khi chuyển phôi từ noãn đông lạnh trong cả các chu kỳ tự thân và từ người hiến nêu lên những câu hỏi quan trọng về quá trình thủy tinh hóa noãn và cần được nghiên cứu thêm. Điều này không thể hoàn toàn được giải thích bởi sự khác biệt trong môi trường nội mạc tử cung. Nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào việc cải thiện tỷ lệ sinh sống khi sử dụng noãn đông lạnh từ người hiến, với hy vọng rằng điều này sẽ cung cấp cho các bác sĩ thông tin cần thiết để đưa ra các tư vấn và chăm sóc cá nhân hóa cho bệnh nhân về tiên lượng của họ.
Nguồn: Burks, C. A., Purdue-Smithe, A., DeVilbiss, E., Mumford, S., & Weinerman, R. (2023). Frozen autologous and donor oocytes are associated with differences in clinical and neonatal outcomes compared with fresh oocytes: a Society for Assisted Reproductive Technology Clinic Outcome Reporting System Analysis. F&S reports, 5(1), 40–46.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sử dụng hCG để hỗ trợ hoàng thể trong các chu kỳ tự nhiên chuyển phôi nang đông lạnh-rã đông: một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 25-08-2024
Tác dụng của liều gonadotropin trong các phác đồ kích thích buồng trứng đối với hiệu quả thu nhận noãn MII - Ngày đăng: 25-08-2024
Hiệu quả của phương pháp hỗ trợ thoát màng bằng laser đối với phôi nang đông lạnh: Kết quả từ một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 24-08-2024
Tiểu đường ở nam giới và vô sinh – cơ chế đề nghị và giải pháp - Ngày đăng: 24-08-2024
Tối ưu chiến lược chuyển phôi trữ ở nhóm bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần khi không có phôi nang trữ: rã đông phôi ngày 3 và nuôi cấy đến phôi nang ngày 5 - Ngày đăng: 22-08-2024
So sánh kết quả mang thai giữa chuyển phôi dâu ngày 4 và phôi nang ngày 5: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 22-08-2024
Kết quả mang thai của chuyển phôi tươi giai đoạn phôi phân chia và phôi nang: một nghiên cứu hồi cứu cắt ngang - Ngày đăng: 22-08-2024
Ảnh hưởng của tốc độ phát triển và chất lượng phôi nang đến trọng lượng trẻ sơ sinh trong chu kỳ chuyển đơn phôi nang đông lạnh sau rã đông - Ngày đăng: 22-08-2024
Kết quả và ảnh hưởng của PGT-M ở phụ nữ mắc hội chứng ung thư di truyền liên quan đến hormone - Ngày đăng: 20-08-2024
Hội nghị Vô sinh và Kỹ thuật Hỗ trợ sinh sản lần thứ 11 - Ngày đăng: 20-08-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK