Tin tức
on Sunday 25-08-2024 6:08am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Đỗ Lê Đình Thiện - IVFMD Phú Nhuận.
Trong điều trị chuyển phôi đông lạnh – rã đông (frozen–thawed embryo transfer - FET), các chu kỳ tự nhiên đề cập đến các chu kỳ trong đó các nang noãn phát triển một cách tự nhiên, sau đó rụng noãn và chuyển sang hoàng thể. Hoàng thể sản xuất progesterone và estrogen, những chất cần thiết cho quá trình làm tổ của phôi và quá trình mang thai tiếp theo. Do sự hiện diện của hoàng thể nên nhu cầu sử dụng chất hỗ trợ hoàng thể từ bên ngoài trong các chu kỳ tự nhiên sẽ ít hơn. Mặc dù có rất ít bằng chứng ủng hộ lợi ích của việc hỗ trợ giai đoạn hoàng thể (luteal phase support - LPS) trong chu kỳ tự nhiên, LPS vẫn thường được sử dụng trong thực tế.
Progesterone và hCG là hai loại thuốc hỗ trợ giai đoạn hoàng thể (LPS) được sử dụng thường xuyên nhất. Chúng có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp trong các chu kỳ tự nhiên. hCG hoạt động ở cả hoàng thể và nội mạc tử cung. Nó điều chỉnh hiệu quả nhiều con đường trao đổi chất trong màng rụng, từ đó góp phần vào khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung. Người ta nhận thấy hCG có tác dụng ức chế đáng kể yếu tố tăng trưởng giống insulin liên kết với protein-1 (IGF-BP-1) trong tử cung và yếu tố kích thích đại thực bào (M-CSF). Ngược lại, nó kích thích đáng kể yếu tố ức chế bệnh bạch cầu (LIF), yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) và Matrix metallicoproteinase-9 (MMP-9). hCG thúc đẩy hoàng thể sản xuất progesterone liên tục thông qua việc mô phỏng các xung LH. Cơ chế của quá trình này là hCG liên kết với thụ thể LH của tế bào hạt, và sau đó dẫn đến kích hoạt mạnh mẽ con đường AMP protein kinase A vòng (cAMP-pathway), kích thích sản xuất progesterone. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng hCG thúc đẩy tăng tuổi thọ của hoàng thể thông qua việc tăng mức độ BCL-2 chống apoptotic và giảm proapoptotic Bax. Ngoài tác dụng của hCG đối với hoàng thể, hCG có thể cung cấp tín hiệu liên quan đến việc làm tổ của phôi vào nội mạc tử cung trong tương lai, thúc đẩy sự phát triển và biệt hóa của tế bào lá nuôi và thiết lập các cấu trúc nhung mao nhau thai. Quá trình sinh tổng hợp hCG bắt đầu sớm trong quá trình phát triển phôi thai. Do đó, hCG được phát hiện ở nồng độ tương đối cao trong lòng tử cung trước khi làm tổ và việc sử dụng hCG ngoại sinh trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm có thể mô phỏng tác dụng cục bộ của hCG khi quá trình thụ tinh diễn ra tự nhiên. Do đó, nhiều nhà nghiên cứu ban đầu tin rằng hCG nên là lựa chọn chính cho LPS.
Tuy nhiên, hCG LPS được báo cáo là không có lợi trong một phân tích tổng hợp được công bố gần đây, bao gồm hai nghiên cứu kiểm tra việc sử dụng hCG làm phác đồ duy nhất cho LPS trong chu kỳ FET tự nhiên. Hai nghiên cứu này đều do Lee và cộng sự thực hiện, và chỉ có phôi phân chia được chuyển. Nghiên cứu đầu tiên là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trong đó phụ nữ trong nhóm LPS nhận được hai liều 1500 IU hCG vào ngày FET và 6 ngày sau đó. Họ phát hiện ra rằng LPS với hCG không làm tăng tỷ lệ thai lâm sàng. Nghiên cứu thứ hai là một thử nghiệm ngẫu nhiên, có đối chứng (RCT) với đối chứng giả dược, bao gồm 450 phụ nữ và họ sử dụng cùng một phác đồ điều trị cho nhóm LPS. Các tác giả này cũng tìm thấy kết quả có sự khác biệt ở nhóm LPS và nhóm dùng giả dược.
Trong chu kỳ FET tự nhiên, tác dụng của hCG có thể liên quan đến liều lượng và thời điểm tiêm hCG. Tmax là 12 giờ và T1/2 là 23 giờ đối với hCG. Do đó, sự khác biệt về liều lượng và thời điểm tiêm hCG có thể dẫn đến những ảnh hưởng khác nhau đến kết quả sinh sản. Nhóm nghiên cứu suy đoán rằng việc tiêm hCG liên tục sau khi chuyển phôi có thể là tối ưu. Những tiến bộ trong môi trường nuôi cấy phôi đã dẫn đến việc chuyển phôi ở giai đoạn phôi nang cho kết quả mang thai tốt hơn so với chuyển phôi ở giai đoạn phân chia. Tác dụng của hCG cho LPS đối với FET chu kỳ tự nhiên của phôi giai đoạn phôi nang là không rõ ràng.
Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá tác động của việc tiêm hCG liên tục vào FET tự nhiên. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành một nghiên cứu hồi cứu ở những phụ nữ đã chuyển phôi nang. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng việc sử dụng hCG ở FET trong chu kỳ tự nhiên có LPS liên quan đến việc tăng tỷ lệ thai lâm sàng và sinh sống.
Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này bao gồm tất cả các bệnh nhân từ một trung tâm duy nhất đã trải qua chu kỳ FET phôi nang tự nhiên đầu tiên từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2022. Những người tham gia được chia thành nhóm hCG LPS và nhóm không hCG LPS (đối chứng).
Tiêu chuẩn loại:
Phôi ở giai đoạn phôi nang được rã đông và chuyển vào ngày thứ 5. Cho phép chuyển tối đa hai phôi ở giai đoạn phôi nang. Đánh giá phôi nang được thực hiện theo hệ thống phân loại của Gardner.
Kết cục chính của nghiên cứu là tỷ lệ mang thai và tỷ lệ sinh sống. Các kết cục phụ bao gồm tỷ lệ sẩy thai sớm (trước tuần thai thứ 12 của thai kỳ) và tỷ lệ sẩy thai hoàn toàn.
Kết quả nghiên cứu:
Đặc điểm nền:
Tổng cộng có 4762 phụ nữ đáp ứng các tiêu chí bao gồm và loại trừ được đưa vào nghiên cứu này. Trong số này, 1910 và 2852 bệnh nhân lần lượt thuộc nhóm hCG LPS và nhóm không hCG LPS. Tuổi nữ, tuổi nam, chỉ số khối cơ thể, thời gian vô sinh, số lần sinh, nguyên nhân vô sinh, nồng độ FSH cơ bản và nồng độ LH cơ bản là tương tự nhau ở hai nhóm.
Về đặc điểm thụ tinh trong ống nghiệm, số lượng noãn chọc hút được ở nhóm hCG LPS lớn hơn đáng kể so với nhóm không hCG LPS (12,08 ± 5,68 so với 12,76 ± 5,96, p<0,001). Không có sự khác biệt đáng kể về phương pháp thụ tinh hoặc tỷ lệ “trữ phôi toàn bộ” giữa các nhóm.
Về đặc điểm FET, tỷ lệ trigger ở nhóm hCG LPS là 62,3%, cao gấp đôi so với nhóm không hCG LPS (30,4%, p<0,001). Trong nhóm hCG LPS, số lượng phôi nang trung bình được chuyển ít hơn đáng kể so với nhóm không hCG LPS (1,23 ± 0,42 so với 1,26 ± 0,44, p=0,009). Ngoài ra, tỷ lệ chuyển phôi nang chất lượng tốt thấp hơn đáng kể so với nhóm không hCG LPS (47,96% so với 55,4%, p<0,001). Kiểu chuyển phôi nang ở hai nhóm là tương tự nhau.
Kết quả mang thai:
Tỷ lệ có thai lâm sàng ở nhóm hCG LPS thấp hơn đáng kể so với nhóm không hCG LPS (63,82% so với 66,41%, OR=0,872, 95% KTC 0,765–0,996, p=0,046). Tỷ lệ sinh sống ở nhóm dùng hCG LPS thấp hơn đáng kể so với nhóm không dùng hCG LPS (53,98% so với 57,15%, OR=0,873, KTC 95% 0,766–0,991, p=0,035). Tỷ lệ thai sinh hóa, làm tổ, sẩy thai sớm ở song thai và sẩy thai toàn bộ không khác nhau giữa các nhóm (tất cả p ≥0,05).
Phân tích phân nhóm:
Trong số 2067 phụ nữ được trigger bằng hCG, 1200 (58,06%) sử dụng hCG LPS và 867 (41,94%) không sử dụng hCG LPS. Ở những phụ nữ được trigger bằng hCG, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thai sinh hóa, thai lâm sàng, sẩy thai sớm, sẩy thai toàn bộ hoặc sinh sống giữa hai phân nhóm (tất cả đều p≥0,05).
Tuy nhiên, trong số 2695 phụ nữ rụng trứng tự nhiên, có 710 (26,35%) sử dụng hCG LPS và 1985 (73,65%) không sử dụng hCG LPS. Tỷ lệ thai lâm sàng (60,99% so với 67,21%, OR=0,786, 95% KTC 0,652–0,946, p=0,011) và sinh sống (50,56% so với 57,63%, OR=0,743, 95% KTC 0,619–0,878, P=0,001) trong nhóm hCG LPS thấp hơn đáng kể so với nhóm không hCG LPS. Tỷ lệ thai sinh hóa, sẩy thai sớm hoặc sẩy thai toàn bộ không khác biệt giữa hai nhóm (tất cả đều p≥0,05).
Kết luận:
Nghiên cứu cho thấy hCG LPS có liên quan đến tỷ lệ mang thai lâm sàng và sinh sống thấp hơn. Ngoài ra, tác dụng phụ của hCG LPS rõ rệt hơn ở những phụ nữ rụng noãn tự nhiên. Cần nghiên cứu sâu hơn để hiểu rõ hơn về cơ chế đằng sau mối liên hệ này.
Nguồn: Wen W, Li N, Shi J, Zhou H and Fan L (2024) Use of hCG for luteal support in natural frozen–thawed blastocyst transfer cycles: a cohort study. Front. Endocrinol. 15:1391902.
Trong điều trị chuyển phôi đông lạnh – rã đông (frozen–thawed embryo transfer - FET), các chu kỳ tự nhiên đề cập đến các chu kỳ trong đó các nang noãn phát triển một cách tự nhiên, sau đó rụng noãn và chuyển sang hoàng thể. Hoàng thể sản xuất progesterone và estrogen, những chất cần thiết cho quá trình làm tổ của phôi và quá trình mang thai tiếp theo. Do sự hiện diện của hoàng thể nên nhu cầu sử dụng chất hỗ trợ hoàng thể từ bên ngoài trong các chu kỳ tự nhiên sẽ ít hơn. Mặc dù có rất ít bằng chứng ủng hộ lợi ích của việc hỗ trợ giai đoạn hoàng thể (luteal phase support - LPS) trong chu kỳ tự nhiên, LPS vẫn thường được sử dụng trong thực tế.
Progesterone và hCG là hai loại thuốc hỗ trợ giai đoạn hoàng thể (LPS) được sử dụng thường xuyên nhất. Chúng có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp trong các chu kỳ tự nhiên. hCG hoạt động ở cả hoàng thể và nội mạc tử cung. Nó điều chỉnh hiệu quả nhiều con đường trao đổi chất trong màng rụng, từ đó góp phần vào khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung. Người ta nhận thấy hCG có tác dụng ức chế đáng kể yếu tố tăng trưởng giống insulin liên kết với protein-1 (IGF-BP-1) trong tử cung và yếu tố kích thích đại thực bào (M-CSF). Ngược lại, nó kích thích đáng kể yếu tố ức chế bệnh bạch cầu (LIF), yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) và Matrix metallicoproteinase-9 (MMP-9). hCG thúc đẩy hoàng thể sản xuất progesterone liên tục thông qua việc mô phỏng các xung LH. Cơ chế của quá trình này là hCG liên kết với thụ thể LH của tế bào hạt, và sau đó dẫn đến kích hoạt mạnh mẽ con đường AMP protein kinase A vòng (cAMP-pathway), kích thích sản xuất progesterone. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng hCG thúc đẩy tăng tuổi thọ của hoàng thể thông qua việc tăng mức độ BCL-2 chống apoptotic và giảm proapoptotic Bax. Ngoài tác dụng của hCG đối với hoàng thể, hCG có thể cung cấp tín hiệu liên quan đến việc làm tổ của phôi vào nội mạc tử cung trong tương lai, thúc đẩy sự phát triển và biệt hóa của tế bào lá nuôi và thiết lập các cấu trúc nhung mao nhau thai. Quá trình sinh tổng hợp hCG bắt đầu sớm trong quá trình phát triển phôi thai. Do đó, hCG được phát hiện ở nồng độ tương đối cao trong lòng tử cung trước khi làm tổ và việc sử dụng hCG ngoại sinh trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm có thể mô phỏng tác dụng cục bộ của hCG khi quá trình thụ tinh diễn ra tự nhiên. Do đó, nhiều nhà nghiên cứu ban đầu tin rằng hCG nên là lựa chọn chính cho LPS.
Tuy nhiên, hCG LPS được báo cáo là không có lợi trong một phân tích tổng hợp được công bố gần đây, bao gồm hai nghiên cứu kiểm tra việc sử dụng hCG làm phác đồ duy nhất cho LPS trong chu kỳ FET tự nhiên. Hai nghiên cứu này đều do Lee và cộng sự thực hiện, và chỉ có phôi phân chia được chuyển. Nghiên cứu đầu tiên là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trong đó phụ nữ trong nhóm LPS nhận được hai liều 1500 IU hCG vào ngày FET và 6 ngày sau đó. Họ phát hiện ra rằng LPS với hCG không làm tăng tỷ lệ thai lâm sàng. Nghiên cứu thứ hai là một thử nghiệm ngẫu nhiên, có đối chứng (RCT) với đối chứng giả dược, bao gồm 450 phụ nữ và họ sử dụng cùng một phác đồ điều trị cho nhóm LPS. Các tác giả này cũng tìm thấy kết quả có sự khác biệt ở nhóm LPS và nhóm dùng giả dược.
Trong chu kỳ FET tự nhiên, tác dụng của hCG có thể liên quan đến liều lượng và thời điểm tiêm hCG. Tmax là 12 giờ và T1/2 là 23 giờ đối với hCG. Do đó, sự khác biệt về liều lượng và thời điểm tiêm hCG có thể dẫn đến những ảnh hưởng khác nhau đến kết quả sinh sản. Nhóm nghiên cứu suy đoán rằng việc tiêm hCG liên tục sau khi chuyển phôi có thể là tối ưu. Những tiến bộ trong môi trường nuôi cấy phôi đã dẫn đến việc chuyển phôi ở giai đoạn phôi nang cho kết quả mang thai tốt hơn so với chuyển phôi ở giai đoạn phân chia. Tác dụng của hCG cho LPS đối với FET chu kỳ tự nhiên của phôi giai đoạn phôi nang là không rõ ràng.
Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá tác động của việc tiêm hCG liên tục vào FET tự nhiên. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành một nghiên cứu hồi cứu ở những phụ nữ đã chuyển phôi nang. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng việc sử dụng hCG ở FET trong chu kỳ tự nhiên có LPS liên quan đến việc tăng tỷ lệ thai lâm sàng và sinh sống.
Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này bao gồm tất cả các bệnh nhân từ một trung tâm duy nhất đã trải qua chu kỳ FET phôi nang tự nhiên đầu tiên từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2022. Những người tham gia được chia thành nhóm hCG LPS và nhóm không hCG LPS (đối chứng).
Tiêu chuẩn loại:
- Các chu kỳ sử dụng letrozole hoặc HMG để kích thích buồng trứng
- Tuổi nữ ở FET >35 tuổi
- Chỉ số khối cơ thể >30 kg/m2
- Độ dày nội mạc tử cung ở FET <7 mm
- Khoang tử cung bất thường hoặc tắc dịch vòi tử cung không được điều trị
- Thất bại làm tổ nhiều lần và sảy thai liên tiếp
- Các chu kỳ PGT.
Phôi ở giai đoạn phôi nang được rã đông và chuyển vào ngày thứ 5. Cho phép chuyển tối đa hai phôi ở giai đoạn phôi nang. Đánh giá phôi nang được thực hiện theo hệ thống phân loại của Gardner.
Kết cục chính của nghiên cứu là tỷ lệ mang thai và tỷ lệ sinh sống. Các kết cục phụ bao gồm tỷ lệ sẩy thai sớm (trước tuần thai thứ 12 của thai kỳ) và tỷ lệ sẩy thai hoàn toàn.
Kết quả nghiên cứu:
Đặc điểm nền:
Tổng cộng có 4762 phụ nữ đáp ứng các tiêu chí bao gồm và loại trừ được đưa vào nghiên cứu này. Trong số này, 1910 và 2852 bệnh nhân lần lượt thuộc nhóm hCG LPS và nhóm không hCG LPS. Tuổi nữ, tuổi nam, chỉ số khối cơ thể, thời gian vô sinh, số lần sinh, nguyên nhân vô sinh, nồng độ FSH cơ bản và nồng độ LH cơ bản là tương tự nhau ở hai nhóm.
Về đặc điểm thụ tinh trong ống nghiệm, số lượng noãn chọc hút được ở nhóm hCG LPS lớn hơn đáng kể so với nhóm không hCG LPS (12,08 ± 5,68 so với 12,76 ± 5,96, p<0,001). Không có sự khác biệt đáng kể về phương pháp thụ tinh hoặc tỷ lệ “trữ phôi toàn bộ” giữa các nhóm.
Về đặc điểm FET, tỷ lệ trigger ở nhóm hCG LPS là 62,3%, cao gấp đôi so với nhóm không hCG LPS (30,4%, p<0,001). Trong nhóm hCG LPS, số lượng phôi nang trung bình được chuyển ít hơn đáng kể so với nhóm không hCG LPS (1,23 ± 0,42 so với 1,26 ± 0,44, p=0,009). Ngoài ra, tỷ lệ chuyển phôi nang chất lượng tốt thấp hơn đáng kể so với nhóm không hCG LPS (47,96% so với 55,4%, p<0,001). Kiểu chuyển phôi nang ở hai nhóm là tương tự nhau.
Kết quả mang thai:
Tỷ lệ có thai lâm sàng ở nhóm hCG LPS thấp hơn đáng kể so với nhóm không hCG LPS (63,82% so với 66,41%, OR=0,872, 95% KTC 0,765–0,996, p=0,046). Tỷ lệ sinh sống ở nhóm dùng hCG LPS thấp hơn đáng kể so với nhóm không dùng hCG LPS (53,98% so với 57,15%, OR=0,873, KTC 95% 0,766–0,991, p=0,035). Tỷ lệ thai sinh hóa, làm tổ, sẩy thai sớm ở song thai và sẩy thai toàn bộ không khác nhau giữa các nhóm (tất cả p ≥0,05).
Phân tích phân nhóm:
Trong số 2067 phụ nữ được trigger bằng hCG, 1200 (58,06%) sử dụng hCG LPS và 867 (41,94%) không sử dụng hCG LPS. Ở những phụ nữ được trigger bằng hCG, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thai sinh hóa, thai lâm sàng, sẩy thai sớm, sẩy thai toàn bộ hoặc sinh sống giữa hai phân nhóm (tất cả đều p≥0,05).
Tuy nhiên, trong số 2695 phụ nữ rụng trứng tự nhiên, có 710 (26,35%) sử dụng hCG LPS và 1985 (73,65%) không sử dụng hCG LPS. Tỷ lệ thai lâm sàng (60,99% so với 67,21%, OR=0,786, 95% KTC 0,652–0,946, p=0,011) và sinh sống (50,56% so với 57,63%, OR=0,743, 95% KTC 0,619–0,878, P=0,001) trong nhóm hCG LPS thấp hơn đáng kể so với nhóm không hCG LPS. Tỷ lệ thai sinh hóa, sẩy thai sớm hoặc sẩy thai toàn bộ không khác biệt giữa hai nhóm (tất cả đều p≥0,05).
Kết luận:
Nghiên cứu cho thấy hCG LPS có liên quan đến tỷ lệ mang thai lâm sàng và sinh sống thấp hơn. Ngoài ra, tác dụng phụ của hCG LPS rõ rệt hơn ở những phụ nữ rụng noãn tự nhiên. Cần nghiên cứu sâu hơn để hiểu rõ hơn về cơ chế đằng sau mối liên hệ này.
Nguồn: Wen W, Li N, Shi J, Zhou H and Fan L (2024) Use of hCG for luteal support in natural frozen–thawed blastocyst transfer cycles: a cohort study. Front. Endocrinol. 15:1391902.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tác dụng của liều gonadotropin trong các phác đồ kích thích buồng trứng đối với hiệu quả thu nhận noãn MII - Ngày đăng: 25-08-2024
Hiệu quả của phương pháp hỗ trợ thoát màng bằng laser đối với phôi nang đông lạnh: Kết quả từ một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 24-08-2024
Tiểu đường ở nam giới và vô sinh – cơ chế đề nghị và giải pháp - Ngày đăng: 24-08-2024
Tối ưu chiến lược chuyển phôi trữ ở nhóm bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần khi không có phôi nang trữ: rã đông phôi ngày 3 và nuôi cấy đến phôi nang ngày 5 - Ngày đăng: 22-08-2024
So sánh kết quả mang thai giữa chuyển phôi dâu ngày 4 và phôi nang ngày 5: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 22-08-2024
Kết quả mang thai của chuyển phôi tươi giai đoạn phôi phân chia và phôi nang: một nghiên cứu hồi cứu cắt ngang - Ngày đăng: 22-08-2024
Ảnh hưởng của tốc độ phát triển và chất lượng phôi nang đến trọng lượng trẻ sơ sinh trong chu kỳ chuyển đơn phôi nang đông lạnh sau rã đông - Ngày đăng: 22-08-2024
Kết quả và ảnh hưởng của PGT-M ở phụ nữ mắc hội chứng ung thư di truyền liên quan đến hormone - Ngày đăng: 20-08-2024
Hội nghị Vô sinh và Kỹ thuật Hỗ trợ sinh sản lần thứ 11 - Ngày đăng: 20-08-2024
Giá trị tiên lượng lâm sàng của biến thể số bản sao (CNV) DNA tự do trong môi trường nuôi cấy – nghiên cứu pilot - Ngày đăng: 16-08-2024
miRNA trong tinh dịch và nước tiểu của bệnh nhân vô tinh không do tắc có thể là biomaker tiềm năng để tiên lượng sự hiện diện của tinh trùng và tế bào sinh tinh trong tinh hoàn - Ngày đăng: 16-08-2024
Sự khác biệt cytokine nội mạc tử cung ở những bệnh nhân có và không có lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 16-08-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK