Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 05-04-2024 1:43pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Lê Thị Vân – IVF Vạn Hạnh

Ngày nay, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ để xác định phôi lệch bội (preimplantation genetic testing for aneuploidy – PGT-A) ngày càng được áp dụng cho những phụ nữ lớn tuổi và có tiền sử sẩy thai tái phát hoặc thất bại nhiều chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm. Để tiến hành quy trình PGT-A, hầu hết phụ nữ đều phải trải qua quá trình kích thích buồng trứng, thu nhận noãn, thụ tinh với tinh trùng và nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang. Sau đó phôi nang đủ chất lượng sẽ được tiến hành sinh thiết, trữ lạnh chờ kết quả di truyền trước khi chuyển phôi. Tuy nhiên, một số ít cặp vợ chồng do hoàn cảnh cá nhân mà họ cân nhắc trữ lạnh phôi trước rồi sau đó quyết định PGT-A trước lần chuyển phôi tiếp theo. Ngoài ra, ở nhóm bệnh nhân có dự trữ buồng trứng thấp hoặc đáp ứng kém có thể có nhiều chu kỳ trữ phôi toàn bộ ngày 3, nếu muốn thực hiện PGT-A thì phải rã đông để nuôi cấy lên ngày 5 hoặc ngày 6. Theo tất cả các trường hợp này, phôi sẽ phải trải qua hai lần đông lạnh.  Chính vì vậy, vấn đề ở đây là liên quan đến sự gia tăng thao tác vi mô phôi với nhiều tác động có thể gây tổn hại. Nên vấn đề đặt ra là tầm quan trọng của việc xem xét kết quả lâm sàng để có thể tư vấn phù hợp cho bệnh nhân khi có quyết định PGT-A trước hay sau đông lạnh. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích là để so sánh các kết quả lâm sàng sau khi chuyển phôi nguyên bội giữa những phôi PGT-A được thủy tinh hóa một lần và những phôi được thủy tinh hóa hai lần ở cả giai đoạn phôi phân chia và phôi nang.
 
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên tất cả những phụ nữ bắt đầu chuyển phôi đông lạnh với phôi nguyên bội trong khoảng thời gian từ 1/1/2015 đến 30/6/2020 tại trung tâm Sức khỏe Sinh sản và Di truyền ở London. Chỉ định PGT-A bao gồm tuổi mẹ cao, tiền sử thất bại làm tổ hoặc sẩy thai. Các chu kỳ sử dụng noãn trữ hoặc phôi có kết quả di truyền thất bại cần phải sinh thiết lần hai đều bị loại trừ khỏi nghiên cứu. Tổng cộng có 694 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh nguyên bội sau xét nghiệm di truyền tiền làm tổ để phát hiện lệch bội được đưa vào phân tích và chia thành ba nhóm:
  • Nhóm 1 (n = 451), phôi được sinh thiết để xét nghiệm di truyền PGT-A ở giai đoạn phôi nang và được thủy tinh hóa 1 lần duy nhất (nhóm đối chứng).
  • Nhóm 2 (n = 146), phôi được thủy tinh hóa ở giai đoạn phôi nang, sau đó được rã đông và sinh thiết để xét nghiệm di truyền PGT-A và được thủy tinh hóa lại (nhóm nghiên cứu).
  • Nhóm 3 (n = 97), phôi được thủy tinh hóa vào ngày thứ 3, sau đó rã đông và nuôi cấy đến ngày thứ 5 và tiến hành sinh thiết để xét nghiệm di truyền PGT-A và được thủy tinh hóa lại (nhóm nghiên cứu).
 
Kết quả: Tỷ lệ mang thai, thai lâm sàng và sinh sống ở cả 3 nhóm tương tự nhau khi có điều chỉnh các đặc điểm cơ bản như tuổi mẹ lúc lấy noãn, chất lượng phôi và ngày sinh thiết (bảng 1). Sử dụng nhóm 1 làm nhóm tham chiếu, ở nhóm 2 không khác biệt về mặt thống kê so với nhóm 1 với tỷ lệ mang thai (aOR 1,09; 95%; KTC 0,62–1,91), tỷ lệ thai lâm sàng (aOR 0,89; 95%; KTC 0,58-1,37), tỷ lệ trẻ sinh sống (aOR 0,85; 95%; KTC 0,56-1,28). Mặt khác, không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm 3 và nhóm 1 với tỷ lệ mang thai tương tự (aOR 1,22; 95%; KTC 0,74-1,99), tỷ lệ thai lâm sàng (aOR 1,21; 95%; KTC 0,75-1,96) và tỷ lệ trẻ sinh sống (aOR 1,15; 95%, KTC 0,73-1,80). Ngoài ra, tỷ lệ sẩy thai giữa cả ba nhóm cũng không có sự khác biệt đáng kể lần lượt là 7,8%, 11% và 9,8%.

Bảng1: Tỷ lệ mang thai, thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống, tỷ lệ sẩy thai ở c 3 nhóm
  Nhóm 1 (n = 451) Nhóm 2 (n = 146) Nhóm 3 (n = 97)
Tỷ lệ mang thai 65,2% 67,8% (p = 0,78) 66% (p = 0,44)
Tỷ lệ thai lâm sàng 62,3% 62,3% (p = 0,6) 62,9% (p = 0,44)
Tỷ lệ trẻ sinh sống 56,8% 54,8% (p = 0,43) 56,7% (p = 0,54)
Tỷ lệ sẩy thai 7,8% 11% (p = 0,47) 9,8% (p = 0,64)
 
Kết luận: Tóm lại, nghiên cứu này chỉ ra rằng tỷ lệ mang thai, thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống và sẩy thai là tương tự nhau đối với phôi nguyên bội được đông lạnh một hoặc hai lần. Mặc dù việc thao tác lên phôi nhiều lần không được ủng hộ nhưng kết quả của nghiên cứu có ý nghĩa lâm sàng vô cùng quan trọng, nó cung cấp thông tin cần thiết và yên tâm cho những phụ nữ mong muốn xét nghiệm di truyền PGT-A trên phôi đã được đông lạnh.

Nguồn: Theodorou, Efstathios, et al. "Live birth rate following a euploid blastocyst transfer is not affected by double vitrification and warming at cleavage or blastocyst stage." Journal of Assisted Reproduction and Genetics 39.4 (2022): 987-993.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK