Tin tức
on Monday 01-04-2024 9:16pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Minh Phượng, IVFMD Tân Bình
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation Genetic Testing – PGT) là một phương pháp có thể ngăn chặn bệnh lý di truyền trong gia đình. Bằng cách sinh thiết một hoặc nhiều phôi bào để phân tích di truyền, các phôi không mang nguy cơ được chuyển vào tử cung. PGT đã phát triển qua nhiều năm, có hai nhóm chính: sinh thiết phôi bào ngày 3 và sinh thiết tế bào lá nuôi phôi (trophectoderm – TE) ngày 5/6. Đây là một thủ thuật xâm lấn, do đó, mối quan tâm về sự an toàn và sức khoẻ của các em bé được sinh ra sau xét nghiệm này nhận được rất nhiều sự quan tâm. Một số quan điểm cho rằng việc loại bỏ đi một số tế bào như vậy sẽ dẫn đến các tác động tiêu cực đến quá trình mang thai và sự phát triển của thai nhi.
Cùng với sự phát triển của lĩnh vực này, một số nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đánh giá sức khoẻ của trẻ sinh ra sau các chu kỳ PGT. Tuy nhiên, kích thước mẫu nhỏ, không đồng nhất về giai đoạn sinh thiết (phôi phân chia hay phôi nang), chu kỳ chuyển phôi (phôi tươi hay phôi đông lạnh). Các kết qủa cũng bị giới hạn về thời gian theo dõi trẻ, một số yếu tố về tình trạng vô sinh cũng không được đề cập. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá tác động của quá trình sinh thiết phôi đối với sức khoẻ và sự phát triển của trẻ sinh ra đến 2 tuổi.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này thu thập dữ liệu các chu kỳ sinh thiết phôi từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2018. Bệnh nhân được chia thành ba nhóm: (1) Sinh thiết phôi ngày 3, đông lạnh phôi ngày 5, chuyển phôi đông lạnh (EBD3FET), (2) Sinh thiết phôi ngày 5/6, đông lạnh, chuyển phôi đông lạnh (EBD5FET) và (3) Sinh thiết phôi ngày 3, chuyển phôi tươi vào ngày 5 (EBD3FRESH). Nhóm đối chứng cũng được chia thành hai nhóm chuyển 1 phôi, không sinh thiết: (1) chuyển phôi đông lạnh (FET) và (2) chuyển phôi tươi (FRESH) trong cùng thời gian nghiên cứu. Cỡ mẫu nghiên cứu bao gồm: 630 trẻ em thuộc nhóm EBD3, 222 trẻ thuộc nhóm EBD5 và 1532 không sinh thiết.
Một số kết quả thu nhận được:
Một trong những điểm sáng của nghiên cứu là cỡ mẫu nghiên cứu lớn, các nhóm đa dạng, có thể giúp bổ sung vào dữ liệu sinh thiết hiện tại. Tuy nhiên, nghiên cứu này thiếu dữ liệu trong quá trình mang thai của bệnh nhân.Tóm lại, nghiên cứu cho thấy quá trình sinh thiết phôi không tác động tiêu cực đến sự phát triển của trẻ đến 2 tuổi.
Tài liệu tham khảo: Belva, F., Kondowe, F., De Vos, A., Keymolen, K., Buysse, A., Hes, F., ... & De Rycke, M. (2023). Cleavage-stage or blastocyst-stage embryo biopsy has no impact on growth and health in children up to 2 years of age. Reproductive Biology and Endocrinology, 21(1), 87.
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation Genetic Testing – PGT) là một phương pháp có thể ngăn chặn bệnh lý di truyền trong gia đình. Bằng cách sinh thiết một hoặc nhiều phôi bào để phân tích di truyền, các phôi không mang nguy cơ được chuyển vào tử cung. PGT đã phát triển qua nhiều năm, có hai nhóm chính: sinh thiết phôi bào ngày 3 và sinh thiết tế bào lá nuôi phôi (trophectoderm – TE) ngày 5/6. Đây là một thủ thuật xâm lấn, do đó, mối quan tâm về sự an toàn và sức khoẻ của các em bé được sinh ra sau xét nghiệm này nhận được rất nhiều sự quan tâm. Một số quan điểm cho rằng việc loại bỏ đi một số tế bào như vậy sẽ dẫn đến các tác động tiêu cực đến quá trình mang thai và sự phát triển của thai nhi.
Cùng với sự phát triển của lĩnh vực này, một số nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đánh giá sức khoẻ của trẻ sinh ra sau các chu kỳ PGT. Tuy nhiên, kích thước mẫu nhỏ, không đồng nhất về giai đoạn sinh thiết (phôi phân chia hay phôi nang), chu kỳ chuyển phôi (phôi tươi hay phôi đông lạnh). Các kết qủa cũng bị giới hạn về thời gian theo dõi trẻ, một số yếu tố về tình trạng vô sinh cũng không được đề cập. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá tác động của quá trình sinh thiết phôi đối với sức khoẻ và sự phát triển của trẻ sinh ra đến 2 tuổi.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này thu thập dữ liệu các chu kỳ sinh thiết phôi từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2018. Bệnh nhân được chia thành ba nhóm: (1) Sinh thiết phôi ngày 3, đông lạnh phôi ngày 5, chuyển phôi đông lạnh (EBD3FET), (2) Sinh thiết phôi ngày 5/6, đông lạnh, chuyển phôi đông lạnh (EBD5FET) và (3) Sinh thiết phôi ngày 3, chuyển phôi tươi vào ngày 5 (EBD3FRESH). Nhóm đối chứng cũng được chia thành hai nhóm chuyển 1 phôi, không sinh thiết: (1) chuyển phôi đông lạnh (FET) và (2) chuyển phôi tươi (FRESH) trong cùng thời gian nghiên cứu. Cỡ mẫu nghiên cứu bao gồm: 630 trẻ em thuộc nhóm EBD3, 222 trẻ thuộc nhóm EBD5 và 1532 không sinh thiết.
Một số kết quả thu nhận được:
- Chuyển phôi sinh thiết phôi giai đoạn ngày 3 hoặc ngày 5 (cả FET và FRESH) không gây các ảnh hưởng tiêu cực về nhân trắc học, sự phát triển của trẻ khi so với nhóm không sinh thiết.
- Thời điểm sinh thiết phôi không gây ảnh hưởng tới trẻ sinh sống, tuy nhiên cân nặng trẻ thuộc nhóm EBD3FET lớn hơn nhóm EBD3FRESH.
- Chiều cao, tăng cân, di tật bẩm sinh, sức khoẻ ảnh hưởng phải nhập viện, phẫu thuật không có sự khác biệt giữa các nhóm trong nghiên cứu.
Một trong những điểm sáng của nghiên cứu là cỡ mẫu nghiên cứu lớn, các nhóm đa dạng, có thể giúp bổ sung vào dữ liệu sinh thiết hiện tại. Tuy nhiên, nghiên cứu này thiếu dữ liệu trong quá trình mang thai của bệnh nhân.Tóm lại, nghiên cứu cho thấy quá trình sinh thiết phôi không tác động tiêu cực đến sự phát triển của trẻ đến 2 tuổi.
Tài liệu tham khảo: Belva, F., Kondowe, F., De Vos, A., Keymolen, K., Buysse, A., Hes, F., ... & De Rycke, M. (2023). Cleavage-stage or blastocyst-stage embryo biopsy has no impact on growth and health in children up to 2 years of age. Reproductive Biology and Endocrinology, 21(1), 87.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Liệu pháp gonadotropin cho nam giới suy giảm hormone sinh dục bẩm sinh một phần tại trung quốc - Ngày đăng: 30-03-2024
Giả thuyết mới về hình thành Lạc nội mạc tử cung: do không thích nghi tốt với tiến hoá? - Ngày đăng: 30-03-2024
Hoạt hóa noãn sớm tại thời điểm 5 giờ sau ICSI là một chiến lược hữu ích để tránh thất bại thụ tinh và thụ tinh thấp ngoài dự kiến trong chu kỳ ICSI - Ngày đăng: 25-03-2024
Tầm quan trọng của việc chuẩn hóa các tiêu chí để giải thích các kết quả PGT-A phôi nang được phân tích bằng kỹ thuật giải trình tự gene thế hệ mới - Ngày đăng: 25-03-2024
Đông lạnh noãn ở những bệnh nhân lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng - Ngày đăng: 24-03-2024
Xuất tinh lần hai mang lại chất lượng tinh trùng và chất lượng phôi nang tốt, cũng như giảm tỉ lệ chu kỳ ICSI không mong muốn: một phân tích so sánh điểm xu hướng - Ngày đăng: 24-03-2024
Ảnh hưởng của lối sống lên sức khỏe sinh sản nam giới - Ngày đăng: 22-03-2024
Ảnh hưởng của hội chứng lo âu/ trầm cảm ở nam giới đến kết quả IVF - Ngày đăng: 22-03-2024
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu về sự ảnh hưởng của số lần điều trị IVF đến chất lượng cuộc sống và trạng thái cảm xúc của phụ nữ - Ngày đăng: 22-03-2024
Liệu pháp Gonadotropin tái tổ hợp giúp cải thiện sự sinh tinh trùng ở bệnh nhân vô tinh không do tắc nghẽn - Ngày đăng: 22-03-2024
Phát hiện gen ZEB1 trong các tế bào hạt ở phụ nữ đang điều trị IVF - Ngày đăng: 18-03-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK