Tin tức
on Sunday 24-03-2024 2:41pm
Danh mục: Tin quốc tế
Xuất tinh lần hai mang lại chất lượng tinh trùng và chất lượng phôi nang tốt, cũng như giảm tỉ lệ chu kỳ ICSI không mong muốn: một phân tích so sánh điểm xu hướng
CNSH. Dương Ngô Hoàng Anh - IVFMD Phú Nhuận, Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Việc lựa chọn phương pháp điều trị vô sinh một phần dựa trên chất lượng tinh dịch. Thời gian kiêng xuất tinh sẽ ảnh hưởng đến các thông số về thể tích, tỉ lệ sống, mật độ tinh trùng, độ di động, hình dạng và độ phân mảnh DNA tinh trùng (Sperm DNA Fragmentation – SDF). Một số nghiên cứu cho kết quả lần xuất tinh thứ hai trong vòng 1 đến 3 giờ kể từ lần xuất tinh đầu tiên có sự cải thiện đáng kể về tổng số tinh trùng di động. Dù vậy, vẫn cần nhiều bằng chứng hơn để đảm bảo lần thứ hai xuất tinh cung cấp đủ tổng số tinh trùng di động cho IVF ở những bệnh nhân phải thay đổi liệu trình điều trị sang ICSI do chất lượng tinh trùng ngày điều trị không đảm bảo. Hiện nay, phương pháp ICSI đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong hỗ trợ sinh sản. Song ICSI là một kỹ thuật xâm lấn, chi phí cao, đòi hỏi kinh nghiệm của chuyên viên phôi học. ICSI có thể ảnh hưởng đến khả năng tháo xoắn của tinh trùng, cũng như phá vỡ trục phân bào của noãn trong quá trình tiêm tinh trùng vào bào tương noãn. Các nghiên cứu gần đây còn cho thấy ICSI không cải thiện kết quả lâm sàng so với IVF cổ điển trong điều trị vô sinh không phải do yếu tố nam. Vì vậy, việc đánh giá chất lượng tinh dịch và kết quả IVF của xuất tinh lần thứ hai có thể là một yếu tố góp phần giảm thiểu phát sinh ICSI do chất lượng tinh dịch không đảm bảo để thực hiện IVF vào ngày điều trị.
Đây là nghiên cứu hồi cứu với 2782 cặp vợ chồng vô sinh có chỉ định ban đầu thực hiện IVF từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 11 năm 2021. Bệnh nhân bị thiểu tinh nặng (mật độ < 1x10^6 tinh trùng/mL), tinh trùng yếu nặng (di động tiến tới < 1%) và các chu kỳ ICSI được loại khỏi nghiên cứu. Vào ngày điều trị, 143 bệnh nhân có tổng số tinh trùng di động sau lọc rửa (bằng swim-up) của lần xuất tinh đầu < 1x10^6 tinh trùng được xem xét chỉ định ICSI. Trong đó, 114 bệnh nhân từ chối ICSI và chấp nhận lấy mẫu lần hai sau 1 – 3 giờ tính từ thời điểm xuất tinh đầu tiên. Hai phân nhóm của nghiên cứu là nhóm IVF thông thường và nhóm IVF xuất tinh lần hai. Kết cục của nghiên cứu là thông số tinh dịch, kết quả thụ tinh, chất lượng phôi và các kết quả lâm sàng. Vì lần xuất tinh thứ hai không được chọn ngẫu nhiên nên để có sự đồng bộ về đặc điểm cơ bản của bệnh nhân, nhóm nghiên cứu đã thực hiện phương pháp so sánh điểm xu hướng bằng mô hình hồi quy logistic thông qua phần mềm R.
Tổng cộng 61/114 bệnh nhân (53,5%) có chất lượng tinh trùng sau lần xuất tinh thứ hai đảm bảo tiếp tục điều trị bằng IVF. Kết quả của nghiên cứu cho thấy lần xuất tinh thứ hai cải thiện đáng kể mật độ tinh trùng, độ di động tiến tới trước và sau lọc rửa, tổng số tinh trùng di động tiến tới trước và sau lọc rửa (P < 0,05). Kết quả cũng ghi nhận lần xuất tinh thứ hai còn giảm SDF (28,00 so với 39,50, P = 0,014). Song, hai phân nhóm không có sự khác biệt đáng kể về hình thái tinh trùng trước (1,00 % so với 1,00 %, P = 0,355) và sau lọc rửa (1,50 % so với 1,00 %, P = 0,112). Bên cạnh đó, hai phân nhóm có sự tương đồng về tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ rescue-ICSI (r-ICSI), tỷ lệ phôi phân chia, tỷ lệ phôi tốt ngày 3, tỷ lệ hình thành phôi nang và các kết quả lâm sàng (P > 0,05). Tuy nhiên, nhóm IVF xuất tinh lần thứ hai có tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt tăng đáng kể so với nhóm IVF thông thường (35,1% so với 26,1%, P = 0,026).
Nhiều nghiên cứu cho thấy ICSI không cải thiện hiệu quả sau thụ tinh so với IVF thông thường, do đó việc xuất tinh lần hai có thể tăng khả năng thực hiện IVF thay vì ICSI cho bệnh nhân. Vẫn chưa có nhiều bằng chứng giải thích rõ ràng nguyên nhân lần xuất tinh thứ hai với thời gian kiêng xuất tinh ngắn có chất lượng tinh trùng tốt hơn (từ 1 – 3 tiếng sau lần xuất tinh đầu). Giả thuyết được đặt ra là thời gian lưu trữ của tinh trùng trong mào tinh hoàn ngắn hơn, giảm stress oxy hóa đối với mẫu xuất tinh sau. Việc rút ngắn thời gian lưu trữ của tinh dịch trong mào tinh làm giảm thời gian tiếp xúc của tinh trùng với các nguồn stress oxy hóa từ tinh trùng chết và bạch cầu. Stress oxy hóa ảnh hưởng đến mức độ phân mảnh tinh trùng, điều này có thể giải thích cho việc lần xuất tinh sau có SDF thấp hơn so với lần xuất tinh đầu. Bên cạnh đó, một loạt các tương tác phức tạp giữa tinh trùng và dịch tiết mào tinh trong quá trình di chuyển của tinh trùng cũng ảnh hưởng đến khả năng vận động đuôi, cũng như tổng thể vận động của tinh trùng. Một nghiên cứu tin sinh học cung cấp các protein được biểu hiện khác nhau đã được tăng cường khả năng vận động của tinh trùng, Do đó, trong lần xuất tinh lần hai cách lần xuất tinh đầu trong thời gian ngắn từ 1 – 3 tiếng cải thiện tổng số tinh trùng di động.
Mặt khác, trong một số nghiên cứu khác còn chỉ ra mối tương quan của stress oxy hóa và sự phát triển phôi nang. SDF thấp hơn trong lần xuất tinh thứ hai có thể dẫn đến phôi nang chất lượng tốt cao do noãn được thụ tinh với tinh trùng có mức độ DNA phân mảnh đứt gãy thấp. Vì vậy, nhóm IVF lần xuất tinh thứ hai có tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt cao hơn so với phân nhóm còn lại. Hạn chế của nghiên cứu là nhóm IVF xuất tinh lần hai có cỡ mẫu nhỏ và kết quả có thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố gây nhiễu không mong muốn.
Xuất tinh lần hai có thể là phương pháp đơn giản, chi phí thấp và hiệu quả để cải thiện chất lượng tinh trùng và chất lượng phôi nang. Lần xuất tinh thứ hai góp phần giảm tỷ lệ ICSI không mong muốn khi chất lượng mẫu ban đầu không đảm bảo để thực hiện IVF, tuy nhiên vẫn cần những nghiên cứu sâu hơn.
Từ khóa: Xuất tinh lần hai, ICSI, chất lượng tinh trùng, so sánh điểm xu hướng, phôi nang chất lượng tốt.
Nguồn: Zhang, Xiaohui, et al. "Second ejaculation produces good quality sperm and blastocyst and decreases the rate of unexpected ICSI cycle: a propensity score-matched analysis." Middle East Fertility Society Journal 29.1 (2024):5.
Từ khóa: Xuất tinh lần hai, ICSI, chất lượng tinh trùng, so sánh điểm xu hướng, phôi nang chất lượng tốt
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của lối sống lên sức khỏe sinh sản nam giới - Ngày đăng: 22-03-2024
Ảnh hưởng của hội chứng lo âu/ trầm cảm ở nam giới đến kết quả IVF - Ngày đăng: 22-03-2024
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu về sự ảnh hưởng của số lần điều trị IVF đến chất lượng cuộc sống và trạng thái cảm xúc của phụ nữ - Ngày đăng: 22-03-2024
Liệu pháp Gonadotropin tái tổ hợp giúp cải thiện sự sinh tinh trùng ở bệnh nhân vô tinh không do tắc nghẽn - Ngày đăng: 22-03-2024
Phát hiện gen ZEB1 trong các tế bào hạt ở phụ nữ đang điều trị IVF - Ngày đăng: 18-03-2024
Tác động của tuổi cha đến kết quả hỗ trợ sinh sản và sức khỏe con cái: một nghiên cứu tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 18-03-2024
Tác động của sinh thiết tế bào lá nuôi phôi trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ đến kết quả sản khoa và sơ sinh: một phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 18-03-2024
So sánh chất lượng phôi và kết cục mang thai của bệnh nhân có dự trữ buồng trứng thấp trong các chu kỳ tự nhiên và chu kỳ kích thích nhẹ: Một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 18-03-2024
Tác động của lạc nội mạc tử cung giai đoạn trung bình và nặng đến tỷ lệ sinh sống tích lũy ivf: nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu có đối chứng - Ngày đăng: 17-03-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK