Tin tức
on Monday 18-03-2024 10:21am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Hồ Khánh Duyên
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing – PGT) có thể chọn lựa được những phôi tốt, tăng tỷ lệ mang thai và sinh con khỏe mạnh, bao gồm sàng lọc lệch bội (PGT for aneuploidy – PGT- A), xác định các tái sắp xếp cấu trúc nhiễm sắc thể (PGT for structural rearrangements – PGT-SR), hoặc các rối loạn đơn gen (PGT for monogenetic disorders – PGT-M). Ban đầu, đánh giá di truyền được thực hiện trên cơ sở sinh thiết các thể cực hoặc 1 đến 2 tế bào từ phôi giai đoạn phân chia. Năm 2005, Kokkali và cộng sự lần đầu tiên báo cáo một ca sinh sống ở người sau khi sinh thiết phôi nang cho PGT, và phương pháp sinh thiết chính thống dần dần chuyển sang sinh thiết tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE). Sinh thiết TE đề cập đến việc hút 5 đến 10 tế bào từ lớp TE trong phôi nang. Nghiên cứu này nhằm mục đích điều tra xem liệu sinh thiết lá nuôi phôi để xét nghiệm di truyền tiền làm tổ có liên quan đến việc tăng nguy cơ sản khoa và sơ sinh so với thụ tinh trong ống nghiệm thông thường hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn mà không xét nghiệm di truyền tiền làm tổ hay không.
Thực hiện tìm kiếm trên MEDLINE, Embase, Web of Science, Thư viện Cochrane và Google Scholar, các nghiên cứu từ tháng 1 năm 1990 đến tháng 8 năm 2022. Quá trình lựa chọn nghiên cứu được thực hiện độc lập bởi 2 nghiên cứu viên. Chất lượng của các nghiên cứu quan sát được đánh giá bằng Thang đo Newcastle-Ottawa và công cụ đánh giá rủi ro sai lệch Cochrane phiên bản 2, được sử dụng để phân loại mức độ sai lệch trong các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng. Tỷ lệ chênh lệch gộp và khoảng tin cậy 95% được tính toán bằng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên khi xảy ra sự không đồng nhất đáng kể (được biểu thị bằng I 2 >50% và P<.1). Ngược lại, mô hình hiệu ứng cố định đã được sử dụng.
Phân tích tổng hợp này bao gồm 13 nghiên cứu liên quan đến 11.469 ca sinh sống sau khi thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ bằng sinh thiết lá nuôi phôi trước khi chuyển phôi và 20.438 ca sinh sống sau khi IVF/ICSI không thực hiện sinh thiết TE. Tỷ lệ chênh lệch sinh non cao hơn ở nhóm sinh thiết TE so với nhóm không thực hiện sinh thiết TE (tỷ lệ chênh lệch gộp 1,12; khoảng tin cậy 95%, 1,03-1,21); tuy nhiên, sự khác biệt không tồn tại sau khi phân tích độ nhạy (tỷ lệ chênh lệch 0,97; khoảng tin cậy 95%, 0,84-1,11). Nguy cơ sinh con nhẹ cân không tăng ở những trường hợp mang thai được sinh thiết. Không có sự khác biệt rõ rệt nào được quan sát thấy về nguy cơ xảy ra các kết quả sản khoa hoặc sơ sinh khác giữa nhóm sinh thiết và nhóm đối chứng. Hơn nữa, kết quả chu sinh không có sự khác biệt giữa các nhóm được sinh thiết tế bào lá nuôi và không sinh thiết.
Sinh thiết TE để xét nghiệm di truyền tiền làm tổ không làm thay đổi nguy cơ sản khoa hoặc sơ sinh so với phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm thông thường hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn mà không xét nghiệm di truyền tiền làm tổ. Tuy nhiên, nghiên cứu này bị hạn chế bởi cơ sở bằng chứng quan sát lớn và cần có nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng để xác nhận thêm những phát hiện này.
Nguồn: Mao D, Xu J, Sun L. Impact of trophectoderm biopsy for preimplantation genetic testing on obstetric and neonatal outcomes: a meta-analysis. American Journal of Obstetrics and Gynecology. 2024 Feb;230(2):199-212.e5. DOI: 10.1016/j.ajog.2023.08.010. PMID: 37595823.
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing – PGT) có thể chọn lựa được những phôi tốt, tăng tỷ lệ mang thai và sinh con khỏe mạnh, bao gồm sàng lọc lệch bội (PGT for aneuploidy – PGT- A), xác định các tái sắp xếp cấu trúc nhiễm sắc thể (PGT for structural rearrangements – PGT-SR), hoặc các rối loạn đơn gen (PGT for monogenetic disorders – PGT-M). Ban đầu, đánh giá di truyền được thực hiện trên cơ sở sinh thiết các thể cực hoặc 1 đến 2 tế bào từ phôi giai đoạn phân chia. Năm 2005, Kokkali và cộng sự lần đầu tiên báo cáo một ca sinh sống ở người sau khi sinh thiết phôi nang cho PGT, và phương pháp sinh thiết chính thống dần dần chuyển sang sinh thiết tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE). Sinh thiết TE đề cập đến việc hút 5 đến 10 tế bào từ lớp TE trong phôi nang. Nghiên cứu này nhằm mục đích điều tra xem liệu sinh thiết lá nuôi phôi để xét nghiệm di truyền tiền làm tổ có liên quan đến việc tăng nguy cơ sản khoa và sơ sinh so với thụ tinh trong ống nghiệm thông thường hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn mà không xét nghiệm di truyền tiền làm tổ hay không.
Thực hiện tìm kiếm trên MEDLINE, Embase, Web of Science, Thư viện Cochrane và Google Scholar, các nghiên cứu từ tháng 1 năm 1990 đến tháng 8 năm 2022. Quá trình lựa chọn nghiên cứu được thực hiện độc lập bởi 2 nghiên cứu viên. Chất lượng của các nghiên cứu quan sát được đánh giá bằng Thang đo Newcastle-Ottawa và công cụ đánh giá rủi ro sai lệch Cochrane phiên bản 2, được sử dụng để phân loại mức độ sai lệch trong các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng. Tỷ lệ chênh lệch gộp và khoảng tin cậy 95% được tính toán bằng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên khi xảy ra sự không đồng nhất đáng kể (được biểu thị bằng I 2 >50% và P<.1). Ngược lại, mô hình hiệu ứng cố định đã được sử dụng.
Phân tích tổng hợp này bao gồm 13 nghiên cứu liên quan đến 11.469 ca sinh sống sau khi thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ bằng sinh thiết lá nuôi phôi trước khi chuyển phôi và 20.438 ca sinh sống sau khi IVF/ICSI không thực hiện sinh thiết TE. Tỷ lệ chênh lệch sinh non cao hơn ở nhóm sinh thiết TE so với nhóm không thực hiện sinh thiết TE (tỷ lệ chênh lệch gộp 1,12; khoảng tin cậy 95%, 1,03-1,21); tuy nhiên, sự khác biệt không tồn tại sau khi phân tích độ nhạy (tỷ lệ chênh lệch 0,97; khoảng tin cậy 95%, 0,84-1,11). Nguy cơ sinh con nhẹ cân không tăng ở những trường hợp mang thai được sinh thiết. Không có sự khác biệt rõ rệt nào được quan sát thấy về nguy cơ xảy ra các kết quả sản khoa hoặc sơ sinh khác giữa nhóm sinh thiết và nhóm đối chứng. Hơn nữa, kết quả chu sinh không có sự khác biệt giữa các nhóm được sinh thiết tế bào lá nuôi và không sinh thiết.
Sinh thiết TE để xét nghiệm di truyền tiền làm tổ không làm thay đổi nguy cơ sản khoa hoặc sơ sinh so với phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm thông thường hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn mà không xét nghiệm di truyền tiền làm tổ. Tuy nhiên, nghiên cứu này bị hạn chế bởi cơ sở bằng chứng quan sát lớn và cần có nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng để xác nhận thêm những phát hiện này.
Nguồn: Mao D, Xu J, Sun L. Impact of trophectoderm biopsy for preimplantation genetic testing on obstetric and neonatal outcomes: a meta-analysis. American Journal of Obstetrics and Gynecology. 2024 Feb;230(2):199-212.e5. DOI: 10.1016/j.ajog.2023.08.010. PMID: 37595823.
Các tin khác cùng chuyên mục:
So sánh chất lượng phôi và kết cục mang thai của bệnh nhân có dự trữ buồng trứng thấp trong các chu kỳ tự nhiên và chu kỳ kích thích nhẹ: Một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 18-03-2024
Tác động của lạc nội mạc tử cung giai đoạn trung bình và nặng đến tỷ lệ sinh sống tích lũy ivf: nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu có đối chứng - Ngày đăng: 17-03-2024
Canxi ionophore cải thiện sự phát triển của phôi và kết quả mang thai ở những bệnh nhân gặp vấn đề về sự phát triển của phôi ở chu kỳ ICSI trước đó - Ngày đăng: 14-03-2024
Kết quả sinh lý của thế hệ con được sinh ra bằng phương pháp IVF, IVM và ICSI: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp các nghiên cứu trên động vật - Ngày đăng: 13-03-2024
Bơm tinh tương vào âm đạo sau chọc hút không làm tăng tỷ lệ trẻ sinh sống sau IVF hoặc ICSI: Nghiên cứu ngẫu nhiên mù đôi có nhóm chứng. - Ngày đăng: 12-03-2024
Mối liên quan giữa chuyển phôi và tỷ lệ đa thai/tỷ lệ sinh sống trong các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh: Một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 07-03-2024
Đánh giá kết quả dự trữ tinh trùng ở nhóm bệnh nhân có bệnh lý ác tính - Ngày đăng: 07-03-2024
Độ dày nội mạc tử cung tối ưu trong các chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ thụ tinh trong ống nghiệm: Một phân tích tỷ lệ trẻ sinh sinh sống từ 96.000 chu kỳ chuyển phôi tự thân - Ngày đăng: 07-03-2024
Báo cáo đầu tiên về in 3D sinh học tế bào tinh hoàn người in vitro - Ngày đăng: 05-03-2024
Lạc nội mạc tử cung, chất lượng noãn và phôi - Ngày đăng: 05-03-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK