Tin tức
on Sunday 17-03-2024 9:12am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH Phan Thị Ngọc Linh – IVFMD Tân Bình
Giới thiệu
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh phụ khoa phổ biến, ảnh hưởng đến khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và 30-50% phụ nữ vô sinh. LNMTC được định nghĩa là sự hiện diện của mô giống nội mạc tử cung bên ngoài khoang tử cung, chủ yếu ở vùng chậu. Triệu chứng của LNMTC có thể không hiện rõ hoặc có thể đau và vô sinh. Cơ chế gây vô sinh do LNMTC vẫn chưa được hiểu rõ và có nhiều yếu tố tác động. LNMTC có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nang trứng, rụng trứng, chất lượng tế bào trứng, khả năng di chuyển của giao tử và quá trình làm tổ. Công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology – ART) và phẫu thuật là hai phương pháp được sử dụng để điều trị LNMTC liên quan đến vô sinh. Tuy nhiên kết quả của điều trị IVF trên bệnh nhân lạc nội mạc tử cung vẫn còn đang tranh cãi. Một số phân tích tổng hợp cho thấy kết quả điều trị ART kém hơn so với nhóm không bị LNMTC hoặc vô sinh do ống dẫn trứng, đặc biệt là ở giai đoạn LNMTC từ trung bình đến nặng. Một vài nghiên cứu lại báo cáo tỷ lệ sinh sống tương tự giữa phụ nữ bị LNMTC và phụ nữ không bị LNMTC. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của LNMTC từ trung bình đến nặng đến tỷ lệ sinh sống tích lũy (cumulative live birth rate – CLBR) sau IVF thông qua một nghiên cứu hồi cứu có đối chứng.
Phương pháp
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 12 năm 2020, trên 195 phụ nữ mắc LNMTC từ trung bình đến nặng (theo phân loại của ASRM) và 390 phụ nữ vô sinh nhưng không mắc LNMTC (nhóm đối chứng), tất cả những phụ nữ tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ 18 – 43 tuổi và được thực hiện IVF hoặc ICSI. Mỗi bệnh nhân LNMTC được ghép cặp hai loại đối chứng bao gồm nhóm đối chứng theo độ tuổi (<30, 30–35, 36–40 hoặc >40 tuổi), chỉ số khối cơ thể BMI (<30 hoặc ≥30 kg/m2), hormone kháng Müllerian (anti-Müllerian hormone – AMH) (<2, 2–5 hoặc >5 ng/ml) và số chu kỳ chính xác được thực hiện tại trung tâm nghiên cứu.
Kết quả
Phụ nữ bị LNMTC có số lượng noãn thu được ít hơn đáng kể so với phụ nữ trong nhóm đối chứng (8,3 ± 5,0 so với 9,3 ± 6,2; P = 0,003) mặc dù liều gonadotropin cao hơn nhưng có tỷ lệ noãn trưởng thành (73% so với 72%, P = 0,24), tỷ lệ thụ tinh (62% so với 60%, P = 0,53), tổng số phôi (4,8 ± 3,4 so với 4,8 ± 3,6, P = 0,95) và tỷ lệ phôi tốt (2,1 ± 1,5 so với 2,2 ± 1,6, P = 0,75) tương tự nhau ở cả hai nhóm. CLBR trên mỗi chu kỳ và trên mỗi bệnh nhân không khác biệt đáng kể giữa nhóm LNMTC và nhóm đối chứng (lần lượt là 19,8% so với 24,3%, P = 0,12; 32,3% so với 37,2%, P = 0,24).
Không có sự khác biệt đáng kể về số lượng noãn thu được (8,5 ± 5,1 so với 7,8 ± 5,0, P = 0,26) ở bệnh nhân LNMTC có tiền sử phẫu thuật so với bệnh nhân chưa từng phẫu thuật. Đồng thời, CLBR ở mỗi chu kì (21,5% so với 15,8%; P = 0,29) và CLBR trên mỗi bệnh nhân (34,5% so với 26,8%; P = 0,32 ) cũng không có sự khác biệt giữa 2 nhóm bệnh nhân LNMTC này.
Bảng 3: Kết quả IVF của chu kỳ kích thích buồng trứng ở bệnh nhân LNMTC và nhóm chứng
Kết luận:
LNMTC giai đoạn trung bình và nặng không có ảnh hưởng đáng kể đối với CLBR ở những bệnh nhân điều trị IVF. Những dữ liệu này giúp cung cấp thêm những bằng chứng cho việc tư vấn bệnh nhân hiếm muộn do LNMTC trước khi thực hiện IVF.
Từ khóa: Lạc nội mạc tử cung, IVF, tỷ lệ sinh sống tích lũy
Giới thiệu
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh phụ khoa phổ biến, ảnh hưởng đến khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và 30-50% phụ nữ vô sinh. LNMTC được định nghĩa là sự hiện diện của mô giống nội mạc tử cung bên ngoài khoang tử cung, chủ yếu ở vùng chậu. Triệu chứng của LNMTC có thể không hiện rõ hoặc có thể đau và vô sinh. Cơ chế gây vô sinh do LNMTC vẫn chưa được hiểu rõ và có nhiều yếu tố tác động. LNMTC có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nang trứng, rụng trứng, chất lượng tế bào trứng, khả năng di chuyển của giao tử và quá trình làm tổ. Công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology – ART) và phẫu thuật là hai phương pháp được sử dụng để điều trị LNMTC liên quan đến vô sinh. Tuy nhiên kết quả của điều trị IVF trên bệnh nhân lạc nội mạc tử cung vẫn còn đang tranh cãi. Một số phân tích tổng hợp cho thấy kết quả điều trị ART kém hơn so với nhóm không bị LNMTC hoặc vô sinh do ống dẫn trứng, đặc biệt là ở giai đoạn LNMTC từ trung bình đến nặng. Một vài nghiên cứu lại báo cáo tỷ lệ sinh sống tương tự giữa phụ nữ bị LNMTC và phụ nữ không bị LNMTC. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của LNMTC từ trung bình đến nặng đến tỷ lệ sinh sống tích lũy (cumulative live birth rate – CLBR) sau IVF thông qua một nghiên cứu hồi cứu có đối chứng.
Phương pháp
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 12 năm 2020, trên 195 phụ nữ mắc LNMTC từ trung bình đến nặng (theo phân loại của ASRM) và 390 phụ nữ vô sinh nhưng không mắc LNMTC (nhóm đối chứng), tất cả những phụ nữ tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ 18 – 43 tuổi và được thực hiện IVF hoặc ICSI. Mỗi bệnh nhân LNMTC được ghép cặp hai loại đối chứng bao gồm nhóm đối chứng theo độ tuổi (<30, 30–35, 36–40 hoặc >40 tuổi), chỉ số khối cơ thể BMI (<30 hoặc ≥30 kg/m2), hormone kháng Müllerian (anti-Müllerian hormone – AMH) (<2, 2–5 hoặc >5 ng/ml) và số chu kỳ chính xác được thực hiện tại trung tâm nghiên cứu.
Kết quả
Phụ nữ bị LNMTC có số lượng noãn thu được ít hơn đáng kể so với phụ nữ trong nhóm đối chứng (8,3 ± 5,0 so với 9,3 ± 6,2; P = 0,003) mặc dù liều gonadotropin cao hơn nhưng có tỷ lệ noãn trưởng thành (73% so với 72%, P = 0,24), tỷ lệ thụ tinh (62% so với 60%, P = 0,53), tổng số phôi (4,8 ± 3,4 so với 4,8 ± 3,6, P = 0,95) và tỷ lệ phôi tốt (2,1 ± 1,5 so với 2,2 ± 1,6, P = 0,75) tương tự nhau ở cả hai nhóm. CLBR trên mỗi chu kỳ và trên mỗi bệnh nhân không khác biệt đáng kể giữa nhóm LNMTC và nhóm đối chứng (lần lượt là 19,8% so với 24,3%, P = 0,12; 32,3% so với 37,2%, P = 0,24).
Không có sự khác biệt đáng kể về số lượng noãn thu được (8,5 ± 5,1 so với 7,8 ± 5,0, P = 0,26) ở bệnh nhân LNMTC có tiền sử phẫu thuật so với bệnh nhân chưa từng phẫu thuật. Đồng thời, CLBR ở mỗi chu kì (21,5% so với 15,8%; P = 0,29) và CLBR trên mỗi bệnh nhân (34,5% so với 26,8%; P = 0,32 ) cũng không có sự khác biệt giữa 2 nhóm bệnh nhân LNMTC này.
Bảng 3: Kết quả IVF của chu kỳ kích thích buồng trứng ở bệnh nhân LNMTC và nhóm chứng
Kết luận:
LNMTC giai đoạn trung bình và nặng không có ảnh hưởng đáng kể đối với CLBR ở những bệnh nhân điều trị IVF. Những dữ liệu này giúp cung cấp thêm những bằng chứng cho việc tư vấn bệnh nhân hiếm muộn do LNMTC trước khi thực hiện IVF.
Từ khóa: Lạc nội mạc tử cung, IVF, tỷ lệ sinh sống tích lũy
TLTK: Zimmermann A, Faust C, Miquel L, Berbis J, Perrin J, Courbiere B. Impact of moderate-to-severe endometriosis on IVF cumulative live birth rate: a retrospective matched cohort study. Reprod Biomed Online. 2023;47(3):103186. doi:10.1016/j.rbmo.2023.02.012
Các tin khác cùng chuyên mục:
Canxi ionophore cải thiện sự phát triển của phôi và kết quả mang thai ở những bệnh nhân gặp vấn đề về sự phát triển của phôi ở chu kỳ ICSI trước đó - Ngày đăng: 14-03-2024
Kết quả sinh lý của thế hệ con được sinh ra bằng phương pháp IVF, IVM và ICSI: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp các nghiên cứu trên động vật - Ngày đăng: 13-03-2024
Bơm tinh tương vào âm đạo sau chọc hút không làm tăng tỷ lệ trẻ sinh sống sau IVF hoặc ICSI: Nghiên cứu ngẫu nhiên mù đôi có nhóm chứng. - Ngày đăng: 12-03-2024
Mối liên quan giữa chuyển phôi và tỷ lệ đa thai/tỷ lệ sinh sống trong các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh: Một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 07-03-2024
Đánh giá kết quả dự trữ tinh trùng ở nhóm bệnh nhân có bệnh lý ác tính - Ngày đăng: 07-03-2024
Độ dày nội mạc tử cung tối ưu trong các chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ thụ tinh trong ống nghiệm: Một phân tích tỷ lệ trẻ sinh sinh sống từ 96.000 chu kỳ chuyển phôi tự thân - Ngày đăng: 07-03-2024
Báo cáo đầu tiên về in 3D sinh học tế bào tinh hoàn người in vitro - Ngày đăng: 05-03-2024
Lạc nội mạc tử cung, chất lượng noãn và phôi - Ngày đăng: 05-03-2024
Phân tích chuyển hóa của exosome cho thấy những thay đổi liên quan đến tuổi tác trong dịch nang buồng trứng - Ngày đăng: 05-03-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK