Tin tức
on Tuesday 31-10-2023 10:30pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Như Quỳnh – IVF Vạn Hạnh
Kĩ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI) là phương pháp hiệu quả giúp hỗ trợ trong các trường hợp vô sinh do yếu tố nam. Trong hơn 30 năm qua, ICSI đã trở thành phương pháp phổ biến trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản. Bên cạnh chỉ định áp dụng cho trường hợp vô sinh do yếu tố nam, ICSI còn được áp dụng trong các trường hợp thụ tinh cho noãn trữ đông, noãn trưởng thành in vitro, hoặc trong các trường hợp bệnh nhân cần thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ, cũng như trong nhiều trường hợp thất bại thụ tinh nhiều lần ở các chu kì thực hiện IVF cổ điển (conventional IVF – c-IVF).
Việc lựa chọn áp dụng ICSI hay c-IVF đối với trường hợp vô sinh không do yếu tố nam vẫn đang là vấn đề có nhiều tranh cãi. Lí do lựa chọn ICSI đối với nhóm bệnh nhân này là nhằm giảm nguy cơ thất bại thụ tinh hoàn toàn. Tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ phôi tốt cao hơn rõ rệt khi noãn được thụ tinh bằng ICSI so với c-IVF ở nhóm bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam. Tuy nhiên, nhóm các nhà khoa học khác lại không đồng ý về hiệu quả vượt trội của ICSI so với c-IVF về tỉ lệ thụ tinh, chất lượng phôi tốt, tỉ lệ thai và tỉ lệ trẻ sinh sống.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả giữa c-IVF và ICSI ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi hoặc có số lượng noãn chọc hút ít. Giả thiết của nhóm nghiên cứu là kết quả ICSI không vượt trội hơn c-IVF ở đối tượng vô sinh không do yếu tố nam.
Vật liệu – Phương pháp
Đối tượng nhận của nghiên cứu: nữ ³ 40 tuổi, và/hoặc có £ 4 noãn chọc hút. Ngoài ra, bệnh nhân có các thông số tinh dịch đồ bình thường hoặc vô sinh không do yếu tố nam cũng được bao gồm trong nghiên cứu. Yếu tố nam không nghiêm trọng được định nghĩa khi các thông số tinh dịch đồ trên ngưỡng tham khảo do tổ chức y tế thế giới đề xuất, có ít nhất 1 triệu tinh trùng di động tiến tới và ³ 75% tinh trùng di động tiến tới được quan sát thấy sau khi đã lọc rửa tinh trùng vào ngày chọc hút noãn.
Nghiên cứu không khảo sát những bệnh nhân có tỉ lệ thụ tinh ở lần điều trị trước < 50%. Những chu kì có sử dụng tinh trùng từ phẫu thuật, noãn hiến hoặc tinh trùng hiến, bệnh nhân có xét nghiệm di truyền tiền làm tổ cũng bị loại khỏi nghiên cứu.
Nhóm bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu sẽ được phân chia ngẫu nhiên vào hai nhóm là c-IVF và ICSI. Quá trình thụ tinh được thực hiện sau khi chọc hút noãn khoảng 4 – 6 giờ. Đối với c-IVF, đồng nuôi cấy với 3 x 105 tinh trùng di động trong 1 ml môi trường nuôi cấy với 1 – 6 noãn trong thời gian 16 – 18 giờ. Phôi được chuyển ở giai đoạn phôi phân chia hoặc phôi nang tuỳ thuộc vào số lượng phôi, độ tuổi bệnh nhân và kết quả của các chu kì điều trị trước. Nếu bệnh nhân ³ 40 tuổi hoặc không thể mang thai trong 2 lần chuyển phôi trước đó, số lượng phôi chuyển sẽ lớn hơn 1 phôi.
Kết quả
Số chu kì thực hiện c-IVF và ICSI trong nghiên cứu này lần lượt là 169 và 167. Không có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi bệnh nhân, nguyên nhân vô sinh và đặc điểm chu kì giữa 2 nhóm. Tuy nhiên, số lượng phôi chuyển ở nhóm c-IVF cao hơn (không đáng kể) nhóm ICSI. Mật độ tinh trùng, tỉ lệ tinh trùng di động và tổng số tinh trùng di động trong mẫu xuất tinh cũng như mẫu sau lọc rửa tương đương giữa 2 nhóm.
- Tỉ lệ thụ tinh ở nhóm c-IVF cao hơn đáng kể so với nhóm ICSI (61,7% và 53,4%, p = 0,001). Tỉ lệ thất bại thụ tinh hoàn toàn là 12,4% ở nhóm c-IVF và 11,4% ở nhóm ICSI. Tuy nhiên, sự khác biệt là không đáng kể (p = 0,767).
- Tỉ lệ chuyển phôi ở giai đoạn phôi nang tương đương giữa 2 nhóm (18,6% và 21,8%, p = 0,496). Số lượng phôi chuyển (ở giai đoạn phân chia hay ở giai đoạn phôi nang) đều không có sự khác biệt giữa 2 nhóm.
- Tỉ lệ làm tổ ở nhóm c-IVF là 13,1% và nhóm ICSI là 10,4% (p = 0,326). Tỉ lệ thai lâm sàng ở nhóm c-IVF và nhóm ICSI lần lượt là 24,3% và 19,0% (p = 0,282).
- Tỉ lệ đa thai, tỉ lệ trẻ sinh sống và tỉ lệ sảy thai giữa 2 nhóm là tương đương nhau.
Bên cạnh 2 nhóm chính, nghiên cứu còn phân tích trên 3 nhóm phụ:
Kết luận
Như vậy, theo kết quả nghiên cứu này, IVF cổ điển có thể mang lại kết quả thụ tinh cao hơn, xu hướng bệnh nhân có thai lâm sàng cao hơn và tỉ lệ trẻ sinh sống tương đương với ICSI ở trường hợp vô sinh không do yếu tố nam. Khi độ tuổi bệnh nhân cao và số lượng noãn chọc hút ít, kĩ thuật ICSI được cho là có kết quả thụ tinh và kết quả thai lâm sàng thấp hơn. Những kết quả nghiên cứu này cho thấy rằng ICSI không ưu thế hơn IVF về tỉ lệ thụ tinh, chất lượng phôi, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai ở đối tượng bệnh nhân lớn tuổi hoặc số lượng noãn chọc hút ít, mặc dù chất lượng tinh trùng ở ngưỡng bình thường hoặc thấp hơn (không đáng kể) so với ngưỡng tham khảo.
Nguồn tham khảo: Fancsovits, P., Lehner, A., Kaszas, Z., Nemes, A., Dudas, B., Murber, A., Berkes-Bara, E., Fekecs, G. and Urbancsek, J., 2023. Intracytoplasmic sperm injection does not improve the outcome of IVF treatments in patients with advanced maternal age or low oocyte number: a randomized controlled trial. Journal of Gynecology Obstetrics and Human Reproduction, p.102625.
Kĩ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI) là phương pháp hiệu quả giúp hỗ trợ trong các trường hợp vô sinh do yếu tố nam. Trong hơn 30 năm qua, ICSI đã trở thành phương pháp phổ biến trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản. Bên cạnh chỉ định áp dụng cho trường hợp vô sinh do yếu tố nam, ICSI còn được áp dụng trong các trường hợp thụ tinh cho noãn trữ đông, noãn trưởng thành in vitro, hoặc trong các trường hợp bệnh nhân cần thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ, cũng như trong nhiều trường hợp thất bại thụ tinh nhiều lần ở các chu kì thực hiện IVF cổ điển (conventional IVF – c-IVF).
Việc lựa chọn áp dụng ICSI hay c-IVF đối với trường hợp vô sinh không do yếu tố nam vẫn đang là vấn đề có nhiều tranh cãi. Lí do lựa chọn ICSI đối với nhóm bệnh nhân này là nhằm giảm nguy cơ thất bại thụ tinh hoàn toàn. Tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ phôi tốt cao hơn rõ rệt khi noãn được thụ tinh bằng ICSI so với c-IVF ở nhóm bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam. Tuy nhiên, nhóm các nhà khoa học khác lại không đồng ý về hiệu quả vượt trội của ICSI so với c-IVF về tỉ lệ thụ tinh, chất lượng phôi tốt, tỉ lệ thai và tỉ lệ trẻ sinh sống.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả giữa c-IVF và ICSI ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi hoặc có số lượng noãn chọc hút ít. Giả thiết của nhóm nghiên cứu là kết quả ICSI không vượt trội hơn c-IVF ở đối tượng vô sinh không do yếu tố nam.
Vật liệu – Phương pháp
Đối tượng nhận của nghiên cứu: nữ ³ 40 tuổi, và/hoặc có £ 4 noãn chọc hút. Ngoài ra, bệnh nhân có các thông số tinh dịch đồ bình thường hoặc vô sinh không do yếu tố nam cũng được bao gồm trong nghiên cứu. Yếu tố nam không nghiêm trọng được định nghĩa khi các thông số tinh dịch đồ trên ngưỡng tham khảo do tổ chức y tế thế giới đề xuất, có ít nhất 1 triệu tinh trùng di động tiến tới và ³ 75% tinh trùng di động tiến tới được quan sát thấy sau khi đã lọc rửa tinh trùng vào ngày chọc hút noãn.
Nghiên cứu không khảo sát những bệnh nhân có tỉ lệ thụ tinh ở lần điều trị trước < 50%. Những chu kì có sử dụng tinh trùng từ phẫu thuật, noãn hiến hoặc tinh trùng hiến, bệnh nhân có xét nghiệm di truyền tiền làm tổ cũng bị loại khỏi nghiên cứu.
Nhóm bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu sẽ được phân chia ngẫu nhiên vào hai nhóm là c-IVF và ICSI. Quá trình thụ tinh được thực hiện sau khi chọc hút noãn khoảng 4 – 6 giờ. Đối với c-IVF, đồng nuôi cấy với 3 x 105 tinh trùng di động trong 1 ml môi trường nuôi cấy với 1 – 6 noãn trong thời gian 16 – 18 giờ. Phôi được chuyển ở giai đoạn phôi phân chia hoặc phôi nang tuỳ thuộc vào số lượng phôi, độ tuổi bệnh nhân và kết quả của các chu kì điều trị trước. Nếu bệnh nhân ³ 40 tuổi hoặc không thể mang thai trong 2 lần chuyển phôi trước đó, số lượng phôi chuyển sẽ lớn hơn 1 phôi.
Kết quả
Số chu kì thực hiện c-IVF và ICSI trong nghiên cứu này lần lượt là 169 và 167. Không có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi bệnh nhân, nguyên nhân vô sinh và đặc điểm chu kì giữa 2 nhóm. Tuy nhiên, số lượng phôi chuyển ở nhóm c-IVF cao hơn (không đáng kể) nhóm ICSI. Mật độ tinh trùng, tỉ lệ tinh trùng di động và tổng số tinh trùng di động trong mẫu xuất tinh cũng như mẫu sau lọc rửa tương đương giữa 2 nhóm.
- Tỉ lệ thụ tinh ở nhóm c-IVF cao hơn đáng kể so với nhóm ICSI (61,7% và 53,4%, p = 0,001). Tỉ lệ thất bại thụ tinh hoàn toàn là 12,4% ở nhóm c-IVF và 11,4% ở nhóm ICSI. Tuy nhiên, sự khác biệt là không đáng kể (p = 0,767).
- Tỉ lệ chuyển phôi ở giai đoạn phôi nang tương đương giữa 2 nhóm (18,6% và 21,8%, p = 0,496). Số lượng phôi chuyển (ở giai đoạn phân chia hay ở giai đoạn phôi nang) đều không có sự khác biệt giữa 2 nhóm.
- Tỉ lệ làm tổ ở nhóm c-IVF là 13,1% và nhóm ICSI là 10,4% (p = 0,326). Tỉ lệ thai lâm sàng ở nhóm c-IVF và nhóm ICSI lần lượt là 24,3% và 19,0% (p = 0,282).
- Tỉ lệ đa thai, tỉ lệ trẻ sinh sống và tỉ lệ sảy thai giữa 2 nhóm là tương đương nhau.
Bên cạnh 2 nhóm chính, nghiên cứu còn phân tích trên 3 nhóm phụ:
- Nhóm A: số lượng noãn chọc hút £ 4 noãn
- Nhóm B: bệnh nhân ³ 40 tuổi
- Nhóm C: số lượng noãn chọc hút £ 4 noãn và bệnh nhân ³ 40 tuổi
Kết luận
Như vậy, theo kết quả nghiên cứu này, IVF cổ điển có thể mang lại kết quả thụ tinh cao hơn, xu hướng bệnh nhân có thai lâm sàng cao hơn và tỉ lệ trẻ sinh sống tương đương với ICSI ở trường hợp vô sinh không do yếu tố nam. Khi độ tuổi bệnh nhân cao và số lượng noãn chọc hút ít, kĩ thuật ICSI được cho là có kết quả thụ tinh và kết quả thai lâm sàng thấp hơn. Những kết quả nghiên cứu này cho thấy rằng ICSI không ưu thế hơn IVF về tỉ lệ thụ tinh, chất lượng phôi, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai ở đối tượng bệnh nhân lớn tuổi hoặc số lượng noãn chọc hút ít, mặc dù chất lượng tinh trùng ở ngưỡng bình thường hoặc thấp hơn (không đáng kể) so với ngưỡng tham khảo.
Nguồn tham khảo: Fancsovits, P., Lehner, A., Kaszas, Z., Nemes, A., Dudas, B., Murber, A., Berkes-Bara, E., Fekecs, G. and Urbancsek, J., 2023. Intracytoplasmic sperm injection does not improve the outcome of IVF treatments in patients with advanced maternal age or low oocyte number: a randomized controlled trial. Journal of Gynecology Obstetrics and Human Reproduction, p.102625.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tổng quan sự khác nhau của hệ protein trong tinh trùng ở những bệnh nhân bị suy giảm tinh trùng - Ngày đăng: 30-10-2023
Adenomyosis có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và điều trị nội tiết có cải thiện tỷ lệ có thai không? - Ngày đăng: 28-10-2023
Xu hướng kích thích buồng trứng phác đồ random start: không còn bị gò bó bởi ngày 2-3 vòng kinh - Ngày đăng: 25-10-2023
Ảnh hưởng của canxi ionophore (A23187) đối với sự phát triển của phôi và sự an toàn của nó trong các chu kỳ PGT - Ngày đăng: 24-10-2023
Ảnh hưởng của chỉ số khối cơ thể đến kết quả IVF ở các nhóm tuổi - Ngày đăng: 24-10-2023
Nồng độ oxy hoá DNA, Protein, Lipid và dấu ấn sinh học về chu trình chết tế bào ở nhóm nam giới tinh dịch nhớt: Một nghiên cứu cắt ngang - Ngày đăng: 14-10-2023
Tác động khác nhau của các phương pháp chuẩn bị tinh trùng đến kết quả của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 14-10-2023
Trường hợp SDF < 15% giúp tiên lượng kết quả thai và trẻ sinh sống ở phụ nữ dưới 40 tuổi - Ngày đăng: 12-10-2023
Kết cục của phôi thụ tinh bất thường - Ngày đăng: 04-10-2023
Liệu mùa khí tượng tại thời điểm lấy noãn có ảnh hưởng đến kết cục sau chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 04-10-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK