Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin chuyên ngành
on Monday 22-05-2023 10:31am
Viết bởi: Khoa Pham
CN Tăng Lê Thái Ngọc , CN Trần Vĩnh Thiên Ngọc, ThS Phan Thị Kim Anh
IVFMD - Tân Bình
Bệnh viện đa khoa Mỹ Đức

  1. GIỚI THIỆU CHUNG
Thể cực được hình thành trong quá trình noãn hoàn tất giảm phân, chúng có kích thước nhỏ hơn khoảng 100 lần so với tế bào noãn và chứa bộ nhiễm sắc thể (NST) tương đương như ở noãn, với lượng ít tế bào chất, ti thể, ribosome và các bào quan khác [1]. Về vai trò, các thể cực được cho là sản phẩm phụ của quá trình giảm phân ở giao tử cái và không có vai trò sinh học nào trong quá trình trưởng thành và thụ tinh của noãn. Đối với lĩnh vực hỗ trợ sinh sản (HTSS), thể cực đã được ứng dụng từ thế kỷ trước trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT) để phát hiện các bất thường về nhiễm sắc thể (NST). Hơn nữa, nhiều nghiên cứu còn cho rằng hình thái của thể cực có liên quan đến khả năng tồn tại của noãn trưởng thành và có thể dự đoán kết quả lâm sàng của các chu kỳ thụ tinh ống nghiệm (IVF). Bên cạnh đó, các báo cáo gần đây đã chứng minh việc chuyển thể cực có thể ngăn chặn sự lây truyền của các bệnh do đột biến DNA ti thể (mtDNA) trong noãn gây nên. Bài viết này sẽ cập nhật những tài liệu y văn mới nhất liên quan đến vai trò của thể cực trong công nghệ HTSS và tiềm năng phát triển của chúng trong tương lai.
 
  1. TỔNG QUAN VỀ THỂ CỰC
  1. Sự hình thành và tống xuất thể cực.
Quá trình hình thành thể cực được diễn ra vào cuối kỳ giữa 1 của quá trình giảm phân, khi các thoi vô sắc ở noãn đã trưởng thành hoàn thiện (Hình 1). Tại thời điểm các thoi vô sắc tiến đến sát màng noãn, hệ thống vi ống sẽ tương tác với các protein actin và myosin để hình thành cấu trúc actinomyosin và hình thành chồi nhú trên màng noãn. Khi các NST phân ly về hai cực thoi vô sắc, mặt phẳng xích đạo thoi vô sắc sẽ hình thành một khoảng trống và tương tác với các protein khung xương tế bào trên màng noãn để hình thành khe lõm. Sau đó, hệ thống thoi vô sắc chứa các cặp NST tương đồng đã phân ly sẽ xoay theo chiều vuông góc và dẫn đến sự hình thành khe lõm thứ hai trên màng noãn. Hai khe lõm trên màng noãn sẽ kết hợp với nhau để hình thành eo thắt, các NST tương đồng sẽ bị ngăn cách giữa hai khối tế bào chất không bằng nhau và một nửa đi vào một tế bào con tương đối nhỏ, tế bào này trở thành thể cực đầu tiên (PB1) [2].  Hai bộ NST còn lại vẫn nằm trong noãn và trở thành noãn bào bậc 1. Sau khi PB1 được tống xuất, mặc dù chúng vẫn nằm trong lớp màng trong suốt nhưng lại không tham gia vào quá trình hình thành phôi và sẽ biến mất trong vòng vài giờ ở chuột và sau 20 giờ ở người [3].
 

Hình 1. Sự phóng thích thể cực [2]. (A) Các NST cảm ứng hình thành vòng actinomyosin. (B) Hình thành chồi nhú trên màng noãn. (C) Khoảng trống sau khi NST phân ly cảm ứng tạo khe lõm. (D) Hiện tượng xoay thoi vô sắc. (E) Hình thành eo thắt và tống xuất thể cực.
 
Tại thời điểm quá trình thụ tinh diễn ra, hai bộ NST còn lại trong noãn sẽ tiếp tục phân chia. Một bộ NST đơn được đóng gói trong thể cực thứ hai (PB2) và được tống xuất ra khỏi noãn với cơ chế tương tự quá trình tống xuất PB1. Do đó, cả hai thể cực sẽ chỉ chứa thông tin di truyền đến từ DNA nhân noãn. Tuy nhiên, khác với PB1 có chứa bộ NST lưỡng bội, PB2 chứa bộ NST đơn bội. Các nhiễm sắc tử trong PB2 được bảo vệ bởi một lớp vỏ nhân dày dặn hơn và thông thường, PB2 vẫn có thể được nhận dạng ở những thời điểm muộn hơn trong quá trình phát triển tiền làm tổ của phôi và vẫn đang chứa các protein mới được tổng hợp.
 
  1. Sự khác nhau giữa thông tin di truyền từ thể cực và nhân của noãn
Đa số nhiều nghiên cứu lớn ở chuột và một số nghiên cứu khác trên người đều cho rằng bộ gen của các thể cực còn nguyên vẹn và không khác biệt so với bộ gen của noãn ngoài trình tự các nucleotide cụ thể của nó [4]. Sự khác biệt trong trình tự DNA được giải thích là do quá trình tái tổ hợp xảy ra ở trong giai đoạn giảm phân 1. Trong nghiên cứu của Hou và cộng sự (2013), kỹ thuật phân tích toàn bộ bộ gen đã được thực hiện trên PB1, PB2 và nhân noãn ở người, kết quả đã chứng minh tính toàn vẹn bộ gen của cả ba sản phẩm từ quá trình giảm phân, cũng như vị trí trao đổi chéo (tái tổ hợp) [5]. Kỹ thuật lai so sánh bộ gen trên microarray (aCGH) cũng được thực hiện để so sánh bộ gen giữa PB1, PB2, noãn MII và tiền nhân cái ở hợp tử, kết quả cho thấy không có sự khác biệt về số lượng bản sao NST và không có sự thay đổi có thể phát hiện được trong bộ gen, với PB1 có bộ gen lưỡng bội bình thường và PB2 có bộ gen đơn bội bình thường. Các dấu hiệu tổn thương DNA cũng không được tìm thấy trong PB1 hoặc PB2 người [6].
 
  1. VAI TRÒ CỦA THỂ CỰC TRONG HỖ TRỢ SINH SẢN
  1. Sinh thiết thể cực trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ
Sinh thiết thể cực được giới thiệu lần đầu  vào năm 1990, đây được xem là cách tiếp cận gián tiếp và ít xâm lấn cho phép suy ra thông tin di truyền của noãn mà không ảnh hưởng đến khả năng thụ tinh và tiềm năng phát triển của phôi [7]. Nhiều nghiên cứu đã áp dụng sinh thiết thể cực cho nhiều mục đích chẩn đoán di truyền như phát hiện các rối loạn đơn gen, phân tích bất thường chuyển vị, phân tích HLA và phát hiện bất thường liên quan đến NST X. Tuy nhiên đến nay, hầu hết các trường hợp sinh thiết thể cực đều được thực hiện để phục vụ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ thể dị bội (PGT-A) có nguồn gốc từ mẹ [1]. Theo kết quả từ một thử nghiệm lâm sàng có đối chứng đa trung tâm của Verpoest và cộng sự (2018) trên các bệnh nhân lớn tuổi (36-40) thực hiện PGT-A bằng sinh thiết thể cực (nhóm nghiên cứu) hoặc chỉ làm IVF-ICSI (nhóm đối chứng) cho thấy mặc dù hai nhóm đều cho tỉ lệ sinh sống tương đương nhau, tỉ lệ sẩy thai (7% so với 14%), tỉ lệ phôi trữ (10% so với 28%) ở nhóm nghiên cứu thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chứng. Sau lần chuyển phôi đầu tiên, tỉ lệ sinh sống ở nhóm nghiên cứu cao hơn so với nhóm đối chứng (30% với 22%). Từ kết quả trên, nhóm tác giả đưa ra kết luận PGT-A bằng sinh thiết thể cực có thể đem lại hiệu quả chuyển phôi cao hơn và rủi ro thấp hơn cho nhóm bệnh nhân lớn tuổi trong các chu kỳ điều trị IVF-ICSI [8].
Tuy nhiên, việc phân tích thể cực không phải lúc nào cũng phản ánh đúng tình trạng của noãn và phôi, giá trị của sinh thiết thể cực cho đến nay vẫn còn tranh cãi. Theo Scott và cộng sự (2012) khoảng một nửa số lỗi NST được phát hiện trong PB1 có thể dẫn đến sự phát triển của một phôi bình thường, phôi này có thể bị loại bỏ một cách vô ý. Nghiên cứu trên cũng báo cáo sự ra đời của một trẻ khỏe mạnh từ noãn với các thể cực mang lệch bội do chuyển đoạn tương hỗ [9]. Bên cạnh đó, do số lượng vật chất di truyền từ thể cực bị hạn chế, nếu trường hợp lỗi khuếch đại xảy ra, theo ước tính sẽ có khoảng 10% noãn và hợp tử được xét nghiệm di truyền mà không có kết luận, trong khi tỉ lệ này ở sinh thiết phôi nang chỉ 5% [10]. Điều này cho thấy những khó khăn trong việc giải thích và chẩn đoán kết quả dựa trên sinh thiết thể cực. Hơn nữa, không phải mọi tế bào noãn đều phát triển thành phôi hữu dụng, việc sinh thiết thể cực cho PGT từ ban đầu có thể làm gia tăng chi phí xét nghiệm không cần thiết cho những phôi nang kém chất lượng [10].  Bất chấp những nhược điểm rõ ràng trên, sinh thiết và phân tích di truyền thể cực vẫn được thảo luận trong những năm gần đây như một sự thay thế tiềm năng cho việc sinh thiết phôi nhờ vào tính chất ít xâm lấn và khả năng tránh được dương tính giả do thể khảm. Ở một số quốc gia có hạn chế pháp lý về sinh thiết phôi, việc sinh thiết và sử dụng thông tin di truyền từ thể cực hiện nay vẫn được xem như lựa chọn duy nhất cho các chỉ định PGT-A có nguồn gốc từ mẹ.
 
  1. Hình thái thể cực và mối tương quan đến kết cục điều trị thụ tinh ống nghiệm
Sự tống xuất thể cực là một dấu hiệu quan trọng cho thấy sự trưởng thành thành công về mặt giảm phân của noãn. Do đó, thể cực có thể được sử dụng như một dấu hiệu dự đoán bổ sung về chất lượng noãn, phôi và kết quả điều trị IVF. Tuy đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến khả năng dự đoán kết cục điều trị thông qua hình thái thể cực, sự mâu thuẫn giữa các kết quả nghiên cứu đã khiến giá trị tiên lượng của thể cực vẫn chưa được làm rõ. Theo nghiên cứu của Ebner và cộng sự (2002), thể cực nguyên vẹn và có bề mặt nhẵn tương quan thuận với tỉ lệ thụ tinh, chất lượng phôi cũng như tỉ lệ làm tổ và mang thai [3]. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Fancsovits và cộng sự (2006) cho thấy sự thoái hóa hoặc kích thước thể cực được phát hiện có tương quan với khả năng sống sót thấp và giảm tỉ lệ thụ tinh ở noãn [11]. Ngoài ra, những hợp tử sau thụ tinh có thể cực nguyên vẹn cho tỉ lệ phôi tốt ngày 3 (23,13% so với 13,88%), tỉ lệ phôi tốt ngày 5 (60,46% so với 0,79%) và tỉ lệ phôi hữu dụng (51,08% so với 39,64%) cao hơn đáng kể so với nhóm có thể cực phân mảnh, mặc dù không có sự khác biệt về tỉ lệ mang thai hoặc làm tổ giữa hai nhóm [12].
 
Ngược lại với các nghiên cứu đã đề cập ở trên, De Santis và cộng sự (2005) đã đánh giá các thông số về kích thước (bình thường và lớn) và hình dạng (mịn, phân mảnh và thô) của thể cực và xác định không có sự khác biệt đáng kể giữa tỉ lệ thụ tinh hoặc chất lượng phôi với hình thái thể cực [13] . Một tiến cứu của Halvaei và cộng sự (2011) phân tích tiềm năng dự đoán của hình thái thể cực đến tỉ lệ thụ tinh và phát triển của phôi cho thấy sự phân mảnh bất thường của PB1 không dự đoán được tỉ lệ thụ tinh (OR=1,07, 95% KTC, 0,73–1,57) hoặc sự hình thành phôi tốt (OR=1,58, 95% KTC, 0,97– 2,59) [14]. Sự mâu thuẫn giữa các nghiên cứu có thể xuất phát từ sự khác biệt trong tiêu chí và thiết bị kỹ thuật được sử dụng để xác định hình thái thể cực, quy trình điều trị, đặc điểm cỡ mẫu nghiên cứu và thời điểm đánh giá hình thái thể cực. Trong khi khả năng tiên lượng kết quả điều trị của thể cực vẫn chưa được nhất trí, việc đánh giá thể cực vẫn có thể góp phần cung cấp thông tin chi tiết hơn nhằm cải thiện các đánh giá hình thái không xâm lấn hiện có trong thực hành lâm sàng.

 
  1. Ứng dụng thể cực trong trường hợp điều trị bệnh liên quan đến mtDNA trong hỗ trợ sinh sản
Ti thể là bào quan giữ vai trò chính trong việc tạo năng lượng cần thiết cho tế bào. Bộ gen ti thể mã hóa cho các chuỗi polypeptide, tRNA và rRNA để tổng hợp nên những chất cần thiết cho quá trình phosphoryl hóa oxy hóa. Tuy nhiên, việc tồn tại trong môi trường giàu chất oxy hóa phản ứng và không có cơ chế sửa chữa hiệu quả khiến DNA ti thể (mtDNA) để bị tổn thương và dẫn đến đột biến hơn DNA từ nhân tế bào. Các đột biến trong DNA ti thể sẽ ảnh hưởng đến các cơ quan có nhu cầu năng lượng cao như cơ, thần kinh và các cơ quan chuyển hóa. Các đột biến DNA trên ti thể hầu hết ở dạng không đồng nhất và chỉ biểu hiện khi tỉ lệ không đồng nhất đạt đến mức nhất định. Ở người, bệnh nhân có hơn 60% mtDNA đột biến có thể phát triển bệnh toàn thân nghiêm trọng, chẳng hạn như ung thư, tiểu đường, bệnh tim, mù, điếc, suy gan [15]. Tỉ lệ đột biến mtDNA biểu hiện lâm sàng ít nhất là 1/10 000 cá thể, nhưng tần số đột biến mtDNA gây bệnh là khoảng 1 trên 200 dân số nói chung [16]. Hiện nay, hầu hết các phương pháp chữa trị đối với bệnh do đột biến mtDNA đều mang tính chất hỗ trợ. Vì mức độ nghiêm trọng và kiểu di truyền của đột biến mtDNA, việc nghiên cứu và phát triển các phương pháp tiền làm tổ để loại bỏ khả năng truyền bệnh từ mẹ sang đã trở thành hướng đi trọng tâm đối với căn bệnh này trong lĩnh vực HTSS.
 
Với mục đích trên, kỹ thuật chuyển nhân đã được phát triển và ứng dụng trên nhóm bệnh này. Chuyển nhân được mô tả là phương pháp loại bỏ những ti thể gây bệnh trong tế bào chất bằng cách chuyển vật liệu di truyền từ noãn của bệnh nhân có nhiều ti thể đột biến sang noãn có ti thể khỏe mạnh đã được loại bỏ nhân. Một số phương pháp chuyển nhân đã được thảo luận gần đây bao gồm: chuyển thoi vô sắc, chuyển thể cực và chuyển tiền nhân. Trong đó, chuyển thể cực đang được xem là một phương pháp mới với nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai (Hình 2). Khác với các nguồn vật chất di truyền còn lại, thể cực chứa ít ti thể và đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu là có chung bộ gen với noãn. Do đó, việc chuyển thể cực có tiềm năng tối thiểu hóa lượng mtDNA bị đột biến trong các phôi tạo thành, cũng như ở những thế hệ tiếp theo. Bên cạnh đó, bộ gen từ thể cực được bảo vệ trong khối tế bào riêng, PB1 hoặc PB2 được tách ra khỏi noãn và có thể dễ dàng thao tác mà không gây tổn thương đến hệ gen của chúng.
 

Hình 2. Chuyển thể cực thứ nhất (A) và thứ hai (B) [17].

 
Bằng chứng thuyết phục nhất về tính toàn vẹn của bộ gen thể cực đến từ các thí nghiệm trên chuột cho thấy chuyển thể cực có thể tái tạo các hợp tử có khả năng phát triển thành một cá thể động vật sinh sống bình thường [18, 19]. Trong nghiên cứu của Wakayama và Yanigamachi (1998), PB1 được chuyển vào các noãn trưởng thành sau khi cấu trúc thoi vô sắc ở noãn đã bị loại bỏ, các NST từ PB1 đã hình thành một cấu trúc thoi vô sắc mới. Sau khi thụ tinh, 30-57% số tế bào noãn đó đã tạo ra những con chuột sinh sống [19]. Tiếp theo đó, nghiên cứu của Wang và cộng sự (2014) so sánh tác động của bốn kiểu chuyển nhân ở chuột: chuyển PB1, chuyển PB2, chuyển thoi vô sắc, và chuyển tiền nhân cho kết quả tỉ lệ sinh sống sau khi thực hiện các kỹ thuật chuyển nhân trên là tương tự nhau (lần lượt, 42,8%, 44,4%, 40% và 53,8%). Kết quả trên cũng tương tự với nhóm đối chứng không chuyển nhân và tất cả các con chuột con được sinh ra đều khỏe mạnh. Ngoài ra phân tích di truyền bằng kỹ thuật Pyrosequencing xác nhận rằng không thể xác định được tỉ lệ không đồng nhất ở thế hệ F1 từ chuyển PB1, trong khi tỉ lệ này ở nhóm chuyển PB2, chuyển thoi vô sắc và chuyển tiền nhân lần lượt 1,7%, 5,5% và 23,7%. Hơn nữa, kiểu gen mtDNA vẫn ổn định ở thế hệ  F2 sau khi chuyển PB1 [6]. Điều này đã chứng minh các cá thể sinh ra từ chuyển PB1 sở hữu tỉ lệ di truyền mtDNA từ noãn cho thể cực ở mức tối thiểu so với thế hệ F1 từ các quy trình chuyển nhân khác. Trong nghiên cứu mới nhất về chuyển thể cực của Wang và cộng sự (2020) đã báo cáo trường hợp hai cá thể khỉ khỏe mạnh đã được sinh thành công từ noãn mới được tái tạo bởi kỹ thuật chuyển PB1. Kết quả phân tích bộ gen từ mô tai của hai cá thể trên cho thấy chúng đều thừa hưởng bộ gen từ khỉ mẹ đã cho PB1. Để xác định nguồn gốc của mtDNA ở hai con khỉ, nhóm tác giả đã giải trình tự các vùng D-loop gen ti thể của hai cá thể khỉ con và so sánh với vùng trình tự trên của khỉ mẹ cho PB1 và ​​khỉ hiến noãn. Kết quả cho thấy mtDNA của hai cá thể khỉ trên chủ yếu có nguồn gốc từ khỉ hiến noãn [20]. Những kết quả này chỉ ra rằng việc chuyển thể cực là một phương pháp thay thế ti thể tiềm năng và đầy hứa hẹn để ngăn ngừa các bệnh đột biến mtDNA.
 
  1. Kết luận
Thể cực được hình thành trong quá trình noãn trưởng thành và thụ tinh, chúng chứa phần lớn DNA ở dạng NST, với rất ít bào quan và tế bào chất xung quanh. Bằng nhiều kỹ thuật phân tích khác nhau, hiện nay các nghiên cứu đều cho rằng bộ gen của các thể cực còn nguyên vẹn và không khác biệt so với bộ gen của noãn. Mặc dù được xem là sản phẩm phụ của quá trình giảm phân ở giao tử cái, thể cực chứa thông tin di truyền về noãn và đã được sử dụng trong PGT để phát hiện các bất thường về NST có nguồn gốc từ mẹ. Trong một số trường hợp, sinh thiết thể cực có thể mang lợi thế hơn sinh thiết phôi do đây là kỹ thuật sinh thiết ít xâm lấn, không làm gián đoạn quá trình phát triển và không gây tổn hại đến tính toàn vẹn của phôi. Bên cạnh vai trò nói trên, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu được tiến hành để đánh giá vai trò dự đoán kết cục điều trị thông qua hình thái thể cực, sự mâu thuẫn giữa các kết quả nghiên cứu đã khiến giá trị tiên lượng của thể cực vẫn chưa được làm rõ. Cuối cùng, nhiều báo cáo gần đây đã chứng minh việc chuyển thể cực có thể ngăn chặn sự lây truyền của các bệnh do đột biến DNA ti thể gây nên. Tuy các thể cực có thời gian sống hạn chế, vật chất di truyền từ thể cực lại có tiềm năng phát triển bình thường khi chuyển sang tế bào noãn đã được loại bỏ nhân, noãn mới từ quá trình chuyển thể cực có thể thụ tinh và phát triển thành cá thể khỏe mạnh. Điều này mang đến cơ hội mới trong việc hạn chế đột biến mtDNA truyền bệnh từ mẹ sang con, cũng như điều trị các trường hợp noãn có bất thường tế bào chất trong tương lai,
 
  1. Tài liệu tham khảo
  1. Wei, Y., Zhang, T., Wang, Y. P., Schatten, H., & Sun, Q. Y. (2015). Polar bodies in assisted reproductive technology: current progress and future perspectives. Biology of reproduction, 92(1), 19-1.
  2. Wang, Q., Racowsky, C., & Deng, M. (2011). Mechanism of the chromosome-induced polar body extrusion in mouse eggs. Cell division, 6(1), 1-9.
  3. Ebner, T., Moser, M., Sommergruber, M., Yaman, C., Pfleger, U., & Tews, G. (2002). First polar body morphology and blastocyst formation rate in ICSI patients. Human Reproduction, 17(9), 2415-2418.
  4. Christopikou, D., Tsorva, E., Economou, K., Shelley, P., Davies, S., Mastrominas, M., & Handyside, A. H. (2013). Polar body analysis by array comparative genomic hybridization accurately predicts aneuploidies of maternal meiotic origin in cleavage stage embryos of women of advanced maternal age. Human Reproduction, 28(5), 1426-1434.
  5. Hou, Y., Fan, W., Yan, L., Li, R., Lian, Y., Huang, J., ... & Qiao, J. (2013). Genome analyses of single human oocytes. Cell, 155(7), 1492-1506.
  6. Wang, T., Sha, H., Ji, D., Zhang, H. L., Chen, D., Cao, Y., & Zhu, J. (2014). Polar body genome transfer for preventing the transmission of inherited mitochondrial diseases. Cell, 157(7), 1591-1604.
  7. Schenk, M., Groselj-Strele, A., Eberhard, K., Feldmeier, E., Kastelic, D., Cerk, S., & Weiss, G. (2018). Impact of polar body biopsy on embryo morphokinetics—back to the roots in preimplantation genetic testing?. Journal of assisted reproduction and genetics, 35(8), 1521-1528.
  8. Verpoest, W., Staessen, C., Bossuyt, P. M., Goossens, V., Altarescu, G., Bonduelle, M., ... & Sermon, K. (2018). Preimplantation genetic testing for aneuploidy by microarray analysis of polar bodies in advanced maternal age: a randomized clinical trial. Human reproduction, 33(9), 1767-1776.
  9. Treff, N. R., Scott, R. T., Su, J., Campos, J., Stevens, J., Schoolcraft, W., & Katz-Jaffe, M. (2012). Polar body morphology is not predictive of its cell division origin. Journal of assisted reproduction and genetics, 29(2), 137-139.
  10. ESHRE PGT Consortium and SIG-Embryology Biopsy Working Group, Kokkali, G., Coticchio, G., Bronet, F., Celebi, C., Cimadomo, D., ... & De Rycke, M. (2020). ESHRE PGT Consortium and SIG Embryology good practice recommendations for polar body and embryo biopsy for PGT. Human reproduction open, 2020(3), hoaa020.
  11. Fancsovits, P., Tóthné, Z. G., Murber, A., Takacs, F. Z., Papp, Z., & Urbancsek, J. (2006). Correlation between first polar body morphology and further embryo development. Acta Biologica Hungarica, 57(3), 331-338.
  12. Zhou, W., Fu, L., Sha, W., Chu, D., & Li, Y. (2016). Relationship of polar bodies morphology to embryo quality and pregnancy outcome. Zygote, 24(3), 401-407.
  13. De Santis, L., Cino, I., Rabellotti, E., Calzi, F., Persico, P., Borini, A., & Coticchio, G. (2005). Polar body morphology and spindle imaging as predictors of oocyte quality. Reproductive BioMedicine Online, 11(1), 36-42.
  14. Halvaei, I., Khalili, M. A., Soleimani, M., & Razi, M. H. (2011). Evaluating the role of first polar body morphology on rates of fertilization and embryo development in ICSI cycles. International Journal of Fertility & Sterility, 5(2), 110.
  15. Brown, D. T., Herbert, M., Lamb, V. K., Chinnery, P. F., Taylor, R. W., Lightowlers, R. N., ... & Turnbull, D. M. (2006). Transmission of mitochondrial DNA disorders: possibilities for the future. The Lancet, 368(9529), 87-89.
  16. Chinnery, P. F., Elliott, H. R., Hudson, G., Samuels, D. C., & Relton, C. L. (2012). Epigenetics, epidemiology and mitochondrial DNA diseases. International journal of epidemiology, 41(1), 177-187.
  17. Wolf, D. P., Mitalipov, N., & Mitalipov, S. (2015). Mitochondrial replacement therapy in reproductive medicine. Trends in molecular medicine, 21(2), 68-76.
  18. Verlinsky, Y., Dozortsev, D., & Evsikov, S. (1994). Visualization and cytogenetic analysis of second polar body chromosomes following its fusion with a one-cell mouse embryo. Journal of assisted reproduction and genetics, 11(3), 123-131.
  19. Wakayama, T., & Yanagimachi, R. (1998). The first polar body can be used for the production of normal offspring in mice. Biology of reproduction, 59(1), 100-104.
  20. Wang, Z., Li, Y., Yang, X., Wang, Y., Nie, Y., Xu, Y., ... & Sun, Q. (2021). Mitochondrial replacement in macaque monkey offspring by first polar body transfer. Cell research, 31(2), 233-236.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
Định nghĩa về IVM - Ngày đăng: 17-06-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK