Tin tức
on Tuesday 13-07-2021 9:37pm
Danh mục: Tin quốc tế
NHS. Lê Thị Minh Thương - IVFMD
Song thai liên quan đến tăng nguy cơ các biến cố bất lợi trong thai kỳ dẫn đến tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong chu sinh so với đơn thai. Ngoài ra, mang song thai ở phụ nữ lớn tuổi được ghi nhận liên quan đến nguy cơ tử vong mẹ cao hơn gấp ba lần so với những phụ nữ trẻ tuổi. Chiến lược lý tưởng nhất trong điều trị hỗ trợ sinh sản là nhắm đến kết cục mang đơn thai và sinh ra một em bé khoẻ mạnh, đủ tháng. Do đó, so với việc chuyển hai phôi (DET – double embryo transfer), việc chuyển đơn phôi chọn lựa (eSET – elective single embryo transfer) được khuyến cáo thực hiện nhiều hơn. Thurin và cộng sự (2004) đã đưa ra các khuyến nghị eSET nên được chỉ định ở phụ nữ <35 tuổi có tiên lượng tốt. Vậy đối với phụ nữ ≥35 tuổi có nên lựa chọn DET không?
Nghiên cứu hồi cứu công bố gần đây của tác giả Xue và cs. (2020) đã khảo sát số liệu liên quan đến 2.038 phụ nữ có độ tuổi ≥35 tại thời điểm chọc hút noãn, và được chuyển hai phôi trữ lạnh tại Trung tâm Y học Sinh sản, Bệnh viện Sir Run Run Shaw, Trung Quốc từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 12 năm 2016. Tất cả các phôi được chuyển đều ở giai đoạn phôi ngày 3. Mẫu được chia thành 3 nhóm theo tiên lượng: tốt, trung bình, kém.
Kết cục của nghiên cứu là tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống. Kết quả của nghiên cứu ghi nhận:
Để đánh giá thêm vai trò của tuổi mẹ đối với tỷ lệ song thai, bệnh nhân được chia theo độ tuổi thành ba nhóm: 35–37, 38–40 và >40 tuổi. Kết quả phân tích dưới nhóm ghi nhận, ở nhóm tiên lượng tốt và trung bình, tỷ lệ có thai tốt, nhưng kèm theo đó tỷ lệ song thai cao. Nhóm tiên lượng kém có tỷ lệ thai lâm sàng phù hợp với tỷ lệ mang song thai thấp (12,5%). Khi phân theo độ tuổi, ta thấy nhóm 35–40 tuổi có tiên lượng tốt và trung bình, tỷ lệ thai lâm sàng là tốt, nhưng tỷ lệ song thai cao đến hơn 20%. Những phụ nữ trên 40 tuổi tỷ lệ mang thai giảm dẫn đến tỷ lệ song thai thấp.
Từ những kết quả này, ta kết luận rằng những phụ nữ lớn tuổi (từ 35 tuổi trở lên) có tiên lượng tốt hoặc trung bình có nguy cơ mang song thai cao khi chuyển hai phôi. Từ đó, ta có thể ứng dụng trong thực hành lâm sàng: tư vấn thực hiện eSET ở phụ nữ có tiên lượng tốt hoặc trung bình và DET ở phụ nữ có tiên lượng kém và nhóm bệnh nhân >40 tuổi. Kết quả từ nghiên cứu này sẽ giúp các bác sĩ điều chỉnh tốt hơn chiến lược chuyển phôi cho các bệnh nhân trên 35 tuổi, nhằm giảm thiểu tình trạng đa thai và các biến chứng liên quan trong thai kỳ, giúp bệnh nhân có kết quả điều trị tốt.
Tài liệu tham khảo: Xue Y, Li K, Zhang S. The effect on twinning rate of transferring double vitrified-warmed embryos in women of advanced reproductive age: a retrospective study. PeerJ. 2020 Jan 6;8:e8308. doi: 10.7717/peerj.8308. PMID: 31934507; PMCID: PMC6951292.
Song thai liên quan đến tăng nguy cơ các biến cố bất lợi trong thai kỳ dẫn đến tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong chu sinh so với đơn thai. Ngoài ra, mang song thai ở phụ nữ lớn tuổi được ghi nhận liên quan đến nguy cơ tử vong mẹ cao hơn gấp ba lần so với những phụ nữ trẻ tuổi. Chiến lược lý tưởng nhất trong điều trị hỗ trợ sinh sản là nhắm đến kết cục mang đơn thai và sinh ra một em bé khoẻ mạnh, đủ tháng. Do đó, so với việc chuyển hai phôi (DET – double embryo transfer), việc chuyển đơn phôi chọn lựa (eSET – elective single embryo transfer) được khuyến cáo thực hiện nhiều hơn. Thurin và cộng sự (2004) đã đưa ra các khuyến nghị eSET nên được chỉ định ở phụ nữ <35 tuổi có tiên lượng tốt. Vậy đối với phụ nữ ≥35 tuổi có nên lựa chọn DET không?
Nghiên cứu hồi cứu công bố gần đây của tác giả Xue và cs. (2020) đã khảo sát số liệu liên quan đến 2.038 phụ nữ có độ tuổi ≥35 tại thời điểm chọc hút noãn, và được chuyển hai phôi trữ lạnh tại Trung tâm Y học Sinh sản, Bệnh viện Sir Run Run Shaw, Trung Quốc từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 12 năm 2016. Tất cả các phôi được chuyển đều ở giai đoạn phôi ngày 3. Mẫu được chia thành 3 nhóm theo tiên lượng: tốt, trung bình, kém.
- Nhóm tiên lượng tốt: (1) chuyển phôi lần đầu tiên và chuyển hai phôi chất lượng tốt, (2) đã chuyển phôi thành công trước đó và có ≥1 phôi chất lượng tốt.
- Nhóm tiên lượng trung bình: (1) chuyển phôi lần đầu và có ≤1 phôi chất lượng tốt, (2) thất bại với chu kỳ đầu tiên và có ≥1 phôi chất lượng tốt, (3) đã chuyển phôi thành công trước đó và không chuyển phôi chất lượng tốt.
- Nhóm tiên lượng kém: có ≥1 lần chuyển phôi thất bại và không chuyển phôi chất lượng tốt.
Kết cục của nghiên cứu là tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống. Kết quả của nghiên cứu ghi nhận:
- Nhóm tiên lượng tốt: tỷ lệ thai lâm sàng là 46,1% (374/812), song thai là 27,3% (102/374) và trẻ sinh sống là 41,3% (335/812).
- Nhóm tiên lượng trung bình, tỷ lệ thai lâm sàng là 38,2% (346/906), song thai là 22,5% (78/346) và trẻ sinh sống là 35,1% (318/906).
- Nhóm tiên lượng kém có tỷ lệ thai lâm sàng, song thai và trẻ sinh sống lần lượt là 30,0% (96/320), 12,5% (12/96) và 25,3% (81/320).
- Sự khác biệt về tỷ lệ thai lâm sàng, song thai và trẻ sinh sống giữa ba nhóm là có ý nghĩa thống kê (P <0,01).
Để đánh giá thêm vai trò của tuổi mẹ đối với tỷ lệ song thai, bệnh nhân được chia theo độ tuổi thành ba nhóm: 35–37, 38–40 và >40 tuổi. Kết quả phân tích dưới nhóm ghi nhận, ở nhóm tiên lượng tốt và trung bình, tỷ lệ có thai tốt, nhưng kèm theo đó tỷ lệ song thai cao. Nhóm tiên lượng kém có tỷ lệ thai lâm sàng phù hợp với tỷ lệ mang song thai thấp (12,5%). Khi phân theo độ tuổi, ta thấy nhóm 35–40 tuổi có tiên lượng tốt và trung bình, tỷ lệ thai lâm sàng là tốt, nhưng tỷ lệ song thai cao đến hơn 20%. Những phụ nữ trên 40 tuổi tỷ lệ mang thai giảm dẫn đến tỷ lệ song thai thấp.
Từ những kết quả này, ta kết luận rằng những phụ nữ lớn tuổi (từ 35 tuổi trở lên) có tiên lượng tốt hoặc trung bình có nguy cơ mang song thai cao khi chuyển hai phôi. Từ đó, ta có thể ứng dụng trong thực hành lâm sàng: tư vấn thực hiện eSET ở phụ nữ có tiên lượng tốt hoặc trung bình và DET ở phụ nữ có tiên lượng kém và nhóm bệnh nhân >40 tuổi. Kết quả từ nghiên cứu này sẽ giúp các bác sĩ điều chỉnh tốt hơn chiến lược chuyển phôi cho các bệnh nhân trên 35 tuổi, nhằm giảm thiểu tình trạng đa thai và các biến chứng liên quan trong thai kỳ, giúp bệnh nhân có kết quả điều trị tốt.
Tài liệu tham khảo: Xue Y, Li K, Zhang S. The effect on twinning rate of transferring double vitrified-warmed embryos in women of advanced reproductive age: a retrospective study. PeerJ. 2020 Jan 6;8:e8308. doi: 10.7717/peerj.8308. PMID: 31934507; PMCID: PMC6951292.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối liên quan giữa tổng số tinh trùng di động và tỷ lệ thai lâm sàng khi thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 13-07-2021
Bổ sung đạm whey có ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng và khả năng sinh sản? - Ngày đăng: 13-07-2021
Nghiên cứu hồi cứu: mối liên hệ giữa độ dày nội mạc tử cung và kết quả thai trong các chu kì chuyển phôi tươi ở các nhóm tuổi bệnh nhân khác nhau - Ngày đăng: 13-07-2021
ẢNH HƯỞNG CỦA VIRUS VIÊM GAN SIÊU VI B, C LÊN CHẤT LƯỢNG TINH TRÙNG - Ngày đăng: 13-07-2021
Tỷ lệ thai lạc chỗ và thai đúng vị trí kết hợp thai lạc chỗ sau chuyển phôi trữ giai đoạn phôi nang và phôi phân chia: Nghiên cứu từ dữ liệu của SART CORS - Ngày đăng: 13-07-2021
Chức năng kháng oxy hóa của HDL dịch nang - Ngày đăng: 13-07-2021
Khả năng sửa chữa phân mảnh DNA tinh trùng của noãn: ảnh hưởng của tuổi mẹ trên kết quả ICSI - Ngày đăng: 12-07-2021
Thuốc chủng ngừa COVID-19 có an toàn trong thai kỳ hay không? - Ngày đăng: 12-07-2021
Sức khoẻ của trẻ 2 tuổi được sinh ra từ noãn thuỷ tinh hoá hiến tặng so với trẻ cùng lứa tuổi được sinh từ noãn tươi hiến tặng - Ngày đăng: 12-07-2021
Ảnh hưởng và cơ chế của nhiễm trùng đường sinh dục lên các thông số stress oxy hoá, phân mảnh DNA tinh trùng và chất lượng tinh dịch ở nam giới vô sinh - Ngày đăng: 12-07-2021
Tư vấn khám bệnh từ xa để chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh trong đại dịch COVID-19: phương pháp hữu hiệu hay con dao hai lưỡi? - Ngày đăng: 12-07-2021
Hội chứng buồng trứng đa nang và trầm cảm sau sinh: một nghiên cứu đoàn hệ dựa trên dân số - Ngày đăng: 07-07-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK