Tin tức
on Wednesday 30-06-2021 2:29pm
Danh mục: Tin quốc tế
NHS. Lê Thị Minh Thương - IVFMD
Bệnh lý ống dẫn trứng là một trong những nguyên nhân hiếm muộn thường gặp. Các yếu tố nguy cơ phổ biến đối với tổn thương ống dẫn trứng bao gồm: viêm nhiễm vùng chậu, thai ngoài tử cung, lạc nội mạc tử cung và lớn tuổi. Các tác động của can thiệp ngoại khoa vào ổ bụng lên ống dẫn trứng vẫn còn chưa rõ ràng; trong đó, tiền căn mổ lấy thai là quan trọng. Đây là loại phẫu thuật phổ biến nhất được chỉ định thực hiện ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, với tỷ lệ ngày càng tăng.
Một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 1716 phụ nữ khám hiếm muộn, thực hiện chụp buồng tử cung và ống dẫn trứng cản quang (HSG) từ tháng 1 năm 1999 đến tháng 1 năm 2012. Bệnh nhân đã được chia thành năm nhóm dựa trên tiền căn phẫu thuật trước đó: không có hoặc có các phẫu thuật không liên quan đến ổ bụng (nhóm chứng); phẫu thuật phụ khoa (bóc u buồng trứng, bóc u xơ cơ tử cung); phẫu thuật bụng (cắt ruột thừa, cắt túi mật, cắt đoạn dạ dày); mổ lấy thai và phẫu thuật thai ngoài tử cung.
Nghiên cứu cho thấy trong tổng số 1716 bệnh nhân, có 80,8% (1386) bệnh nhân không ghi nhận bất thường về ống dẫn trứng, 13,3% (229) bệnh nhân có bất thường một bên ống dẫn trứng và 5,9% (101) bệnh nhân có bất thường ống dẫn trứng hai bên. Trong nhóm có tắc ống dẫn trứng, 15,8% bệnh nhân không có tiền căn phẫu thuật trước đó và 16,3% có tiền căn mổ lấy thai. Các tỷ lệ này là thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm tiền căn có phẫu thuật phụ khoa (34,7%) và nhóm có tiền căn phẫu thuật bụng (27%). Kết quả từ nghiên cứu ghi nhận không có mối liên quan giữa tiền căn mổ lấy thai và các bất thường của ống dẫn trứng. Như vậy, quan điểm cho rằng việc mổ lấy thai trong quá khứ là nguyên nhân gây nên bất thường ống dẫn trứng là không được ủng hộ. Trong thực hành lâm sàng, chúng ta có thể trấn an những phụ nữ có tiền căn mổ lấy thai không nên quá lo lắng về nguy cơ ảnh hưởng lên ống dẫn trứng sau này.
Tài liệu tham khảo
Jacob Farhi, Galia Oron, Sharon Orbach, David Levran, Jonathan Barkat, Sharon Tzelnick & Avi Ben-Haroush (2018): A previous caesarean section is not a risk factor for tubal abnormalities in the infertile population, Journal of Obstetrics and Gynaecology, DOI: 10.1080/01443615.2017.1371680
Bệnh lý ống dẫn trứng là một trong những nguyên nhân hiếm muộn thường gặp. Các yếu tố nguy cơ phổ biến đối với tổn thương ống dẫn trứng bao gồm: viêm nhiễm vùng chậu, thai ngoài tử cung, lạc nội mạc tử cung và lớn tuổi. Các tác động của can thiệp ngoại khoa vào ổ bụng lên ống dẫn trứng vẫn còn chưa rõ ràng; trong đó, tiền căn mổ lấy thai là quan trọng. Đây là loại phẫu thuật phổ biến nhất được chỉ định thực hiện ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, với tỷ lệ ngày càng tăng.
Một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 1716 phụ nữ khám hiếm muộn, thực hiện chụp buồng tử cung và ống dẫn trứng cản quang (HSG) từ tháng 1 năm 1999 đến tháng 1 năm 2012. Bệnh nhân đã được chia thành năm nhóm dựa trên tiền căn phẫu thuật trước đó: không có hoặc có các phẫu thuật không liên quan đến ổ bụng (nhóm chứng); phẫu thuật phụ khoa (bóc u buồng trứng, bóc u xơ cơ tử cung); phẫu thuật bụng (cắt ruột thừa, cắt túi mật, cắt đoạn dạ dày); mổ lấy thai và phẫu thuật thai ngoài tử cung.
Nghiên cứu cho thấy trong tổng số 1716 bệnh nhân, có 80,8% (1386) bệnh nhân không ghi nhận bất thường về ống dẫn trứng, 13,3% (229) bệnh nhân có bất thường một bên ống dẫn trứng và 5,9% (101) bệnh nhân có bất thường ống dẫn trứng hai bên. Trong nhóm có tắc ống dẫn trứng, 15,8% bệnh nhân không có tiền căn phẫu thuật trước đó và 16,3% có tiền căn mổ lấy thai. Các tỷ lệ này là thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm tiền căn có phẫu thuật phụ khoa (34,7%) và nhóm có tiền căn phẫu thuật bụng (27%). Kết quả từ nghiên cứu ghi nhận không có mối liên quan giữa tiền căn mổ lấy thai và các bất thường của ống dẫn trứng. Như vậy, quan điểm cho rằng việc mổ lấy thai trong quá khứ là nguyên nhân gây nên bất thường ống dẫn trứng là không được ủng hộ. Trong thực hành lâm sàng, chúng ta có thể trấn an những phụ nữ có tiền căn mổ lấy thai không nên quá lo lắng về nguy cơ ảnh hưởng lên ống dẫn trứng sau này.
Tài liệu tham khảo
Jacob Farhi, Galia Oron, Sharon Orbach, David Levran, Jonathan Barkat, Sharon Tzelnick & Avi Ben-Haroush (2018): A previous caesarean section is not a risk factor for tubal abnormalities in the infertile population, Journal of Obstetrics and Gynaecology, DOI: 10.1080/01443615.2017.1371680
Các tin khác cùng chuyên mục:
Vai trò của một số chỉ số huyết học trong việc dự đoán thành công của các chu kì thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 30-06-2021
Lựa chọn tinh trùng dựa trên quá trình xâm nhập – lắng đọng và không cần ly tâm: Phương pháp mới giúp đảm bảo chức năng và tính toàn vẹn của DNA tinh trùng - Ngày đăng: 27-06-2021
Suy giảm quá trình sinh tinh ở bệnh nhân COVID-19 - Ngày đăng: 26-06-2021
Đặc điểm phôi và các kết quả lâm sàng của noãn có màng zona pellucida không đồng nhất: một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 26-06-2021
Phân tích tổng hợp ảnh hưởng của đám lưới nội chất trơn đối với kết quả sinh sản - Ngày đăng: 26-06-2021
Sơ lược về phôi khảm và kết quả chuyển phôi khảm trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 24-06-2021
Sự hài lòng và gắn bó của bệnh nhân với trung tâm điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 24-06-2021
Chu kỳ FET dựa trên chu kỳ phóng noãn có thể đạt được tỷ lệ thai cao hơn trong dân số chung và ở phụ nữ không phóng noãn - Ngày đăng: 22-06-2021
Hiệu quả của việc phân tách phôi IVF tiền làm tổ trong ART - Ngày đăng: 22-06-2021
Chuyển phôi nang đông lạnh bằng thủy tinh hóa ngày 5 so với ngày 6 trong chu kỳ xin noãn - Ngày đăng: 22-06-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK