Tin tức
on Saturday 26-06-2021 8:43am
Danh mục: Tin quốc tế
Nguyễn Thị Minh Phượng, Chuyên viên phôi học – IVFMD Tân Bình
Đối với một chu kỳ điều trị hỗ trợ sinh sản (HTSS), noãn đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Noãn người được bảo vệ bởi một cấu trúc glycoprotein (gồm 4 loại glycoprotein là: ZP1, ZP2, ZP3 và ZP4) trong suốt sự phát triển của nang noãn được gọi là màng zona pellucida (ZP) (Lefievre L và cs, 2004; Saldivar-Hernandez A, 2015). Trong quá trình thụ tinh, ZP là yếu tố để tạo liên kết đặc hiệu giữa noãn và tinh trùng, phản ứng acrosome và ngăn chặn quá trình đa thụ tinh (Gupta SK và cs, 2015). Ngoài ra, đây cũng là một cấu trúc bảo vệ phôi khi di chuyển trong ống dẫn trứng đến tử cung ở điều kiện in vivo hoặc tránh khỏi các tác nhân gây stress lên phôi trong quá trình phát triển của phôi in vitro (Choi JK và cs, 2015; Choi JK và cs, 2010).
Các bất thường về hình thái ZP phổ biến như bất thường về thành phần, hình dạng, màu sắc hay độ dày của ZP có thể dẫn tới nguy cơ bất thường khi phân chia tế bào, giảm tỷ lệ phôi làm tổ và mang thai thấp. Hình thái ZP bất thường chiếm khoảng 2-5 % trong tổng số noãn thu nhận (Rienzi L và cs, 2011). Ngoài ra, trong nghiên cứu của Li M và cộng sự (2014) tuy kích thước mẫu hạn chế nhưng đã cho thấy noãn có màng ZP không đồng nhất (heterogeneous zona pellucida – HZP) có liên quan tới việc giảm sự trưởng thành của noãn, giảm tỷ lệ thụ tinh cũng như phôi chất lượng tốt.
Nghiên cứu này được thực hiện bới Pan và cộng sự (2020), với mục đích khảo sát các đặc điểm phôi học và kết quả lâm sàng của noãn HZP trong chu kỳ IVF và ICSI so với các noãn bình thường.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại Đại học Y Ôn Châu từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 3 năm 2016. Các noãn thu nhận được phân thành hai nhóm: có sự hiện của noãn HZP và nhóm đối chứng là các noãn bình thường về mặt hình thái, thu nhận trong cùng ngày. Đặc điểm phôi học và kết quả lâm sàng là hai yếu tố đánh giá chính.
Một số kết quả thu nhận được:
Nhìn chung, phụ nữ có noãn biểu hiện HZP đều có thể mang thai sau khi điều trị IVF hoặc ICSI. Tuy nhiên, thông qua nghiên cứu này ICSI có thể giúp giảm tỷ lệ thụ tinh kém và hủy chu kỳ trong các chu kỳ HTSS có noãn HZP.
Nguồn: Pan, Chengshuang, and Huan Zhang. "Embryological Characteristics and Clinical Outcomes of Oocytes with Heterogeneous Zona Pellucida During Assisted Reproduction Treatment: A Retrospective Study." Medical Science Monitor: International Medical Journal of Experimental and Clinical Research 26 (2020): e924316-1.
Đối với một chu kỳ điều trị hỗ trợ sinh sản (HTSS), noãn đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Noãn người được bảo vệ bởi một cấu trúc glycoprotein (gồm 4 loại glycoprotein là: ZP1, ZP2, ZP3 và ZP4) trong suốt sự phát triển của nang noãn được gọi là màng zona pellucida (ZP) (Lefievre L và cs, 2004; Saldivar-Hernandez A, 2015). Trong quá trình thụ tinh, ZP là yếu tố để tạo liên kết đặc hiệu giữa noãn và tinh trùng, phản ứng acrosome và ngăn chặn quá trình đa thụ tinh (Gupta SK và cs, 2015). Ngoài ra, đây cũng là một cấu trúc bảo vệ phôi khi di chuyển trong ống dẫn trứng đến tử cung ở điều kiện in vivo hoặc tránh khỏi các tác nhân gây stress lên phôi trong quá trình phát triển của phôi in vitro (Choi JK và cs, 2015; Choi JK và cs, 2010).
Các bất thường về hình thái ZP phổ biến như bất thường về thành phần, hình dạng, màu sắc hay độ dày của ZP có thể dẫn tới nguy cơ bất thường khi phân chia tế bào, giảm tỷ lệ phôi làm tổ và mang thai thấp. Hình thái ZP bất thường chiếm khoảng 2-5 % trong tổng số noãn thu nhận (Rienzi L và cs, 2011). Ngoài ra, trong nghiên cứu của Li M và cộng sự (2014) tuy kích thước mẫu hạn chế nhưng đã cho thấy noãn có màng ZP không đồng nhất (heterogeneous zona pellucida – HZP) có liên quan tới việc giảm sự trưởng thành của noãn, giảm tỷ lệ thụ tinh cũng như phôi chất lượng tốt.
Nghiên cứu này được thực hiện bới Pan và cộng sự (2020), với mục đích khảo sát các đặc điểm phôi học và kết quả lâm sàng của noãn HZP trong chu kỳ IVF và ICSI so với các noãn bình thường.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại Đại học Y Ôn Châu từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 3 năm 2016. Các noãn thu nhận được phân thành hai nhóm: có sự hiện của noãn HZP và nhóm đối chứng là các noãn bình thường về mặt hình thái, thu nhận trong cùng ngày. Đặc điểm phôi học và kết quả lâm sàng là hai yếu tố đánh giá chính.
Một số kết quả thu nhận được:
- Có 29 chu kỳ IVF và 46 ICSI trong nhóm HZP, và 521 IVF và 206 chu kỳ ICSI ở nhóm không HZP (đối chứng). Trong các chu kỳ ICSI, tỷ lệ noãn MII và phôi tốt thấp hơn ở nhóm HZP (p <0,05) so với noãn bình thường. Trong các chu kỳ IVF, tỷ lệ noãn MII (p <0,001), thụ tinh bình thường (p <0,001) và phôi phân chia (p <0,001) thấp hơn, trong khi tỷ lệ phôi ngừng phát triển (p <0,001) cao hơn ở nhóm HZP so với nhóm chứng. Kết quả phù hợp với một số nghiên cứu trước đó.
- Tỷ lệ human chorionic gonadotropin (hCG) dương tính, tỷ lệ phôi làm tổ, mang thai và sẩy thai là tương tự nhau giữa cả hai nhóm.
- Phân tích đa biến cho thấy tuổi của người phụ nữ (OR = 0,916 KTC 95% 0,873–0,962; p<0,001) và số lượng phôi tốt ngày 3 (OR = 1,120 95% CI 1,004–1,249; p = 0,043) có liên quan đến tỷ lệ mang thai trong chu kỳ IVF, nhưng không tìm thấy yếu tố tác động có ý nghĩa thống kê trong chu kỳ ICSI.
Nhìn chung, phụ nữ có noãn biểu hiện HZP đều có thể mang thai sau khi điều trị IVF hoặc ICSI. Tuy nhiên, thông qua nghiên cứu này ICSI có thể giúp giảm tỷ lệ thụ tinh kém và hủy chu kỳ trong các chu kỳ HTSS có noãn HZP.
Nguồn: Pan, Chengshuang, and Huan Zhang. "Embryological Characteristics and Clinical Outcomes of Oocytes with Heterogeneous Zona Pellucida During Assisted Reproduction Treatment: A Retrospective Study." Medical Science Monitor: International Medical Journal of Experimental and Clinical Research 26 (2020): e924316-1.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Phân tích tổng hợp ảnh hưởng của đám lưới nội chất trơn đối với kết quả sinh sản - Ngày đăng: 26-06-2021
Sơ lược về phôi khảm và kết quả chuyển phôi khảm trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 24-06-2021
Sự hài lòng và gắn bó của bệnh nhân với trung tâm điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 24-06-2021
Chu kỳ FET dựa trên chu kỳ phóng noãn có thể đạt được tỷ lệ thai cao hơn trong dân số chung và ở phụ nữ không phóng noãn - Ngày đăng: 22-06-2021
Hiệu quả của việc phân tách phôi IVF tiền làm tổ trong ART - Ngày đăng: 22-06-2021
Chuyển phôi nang đông lạnh bằng thủy tinh hóa ngày 5 so với ngày 6 trong chu kỳ xin noãn - Ngày đăng: 22-06-2021
Ảnh hưởng của chất lượng phôi ngày 3 và ngày 5/6 đến kết quả lâm sàng trong các chu kỳ chuyển đơn phôi rã đông sau thuỷ tinh hoá - Ngày đăng: 22-06-2021
Thai lâm sàng sau khi loại bỏ phân mảnh phôi trước khi chuyển phôi tươi giai đoạn phôi phân chia. - Ngày đăng: 20-06-2021
Đo mức độ phân mảnh DNA tinh trùng trước khi điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 20-06-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK