Tin tức
on Friday 21-05-2021 1:52pm
Danh mục: Tin quốc tế
CTV Nguyễn Vĩnh Xuân Phương
Sẩy thai liên tiếp (STLT) xảy ra trong 1-3% các cặp vợ chồng. Hiện vẫn không có sự đồng thuận nào về thời điểm thực hiện các xét nghiệm đánh giá nguy cơ cho các cặp vợ chồng bị STLT. Một số hướng dẫn khuyến cáo xét nghiệm nếu bệnh nhân có hai lần sẩy thai, trong khi đó số khác khuyên nên kiểm tra sau ba lần.
Dijk và cộng sự thực hiện tổng quan hệ thống này nhằm đánh giá các chứng cứ hiện có về tần suất bất thường của các xét nghiệm được thực hiện trên nhóm bệnh nhân có hai so với ba lần sẩy thai trở lên. Nghiên cứu cũng nhằm mục đích cung cấp thêm thông tin để xem xét thời điểm thích hợp để tiếp cận STLT là sau hai hay ba lần sẩy thai trở lên.
Các nghiên cứu liên quan được xác định bởi một cuộc tìm kiếm hệ thống trên OVID Medline và EMBASE từ lúc khởi đầu đến tháng 03/ 2019. Từ khoá tìm kiếm bao gồm STLT kết hợp với một phổ thuật ngữ rộng như số lần sẩy thai, xét nghiệm/sàng lọc sẩy thai hoặc tần suất các yếu tố nguy cơ đã biết. Phân tích gộp được thực hiện trong trường hợp các nghiên cứu đồng nhất về lâm sàng và thống kê. Chất lượng của các nghiên cứu được đánh giá bằng thang Newcastle-Ottawa.
Trong tổng số 1985 công bố được xác định, 21 nghiên cứu được nhận vào tổng quan hệ thống và 19 nghiên cứu thích hợp để phân tích gộp. Đối với những bất thường tử cung (bảy nghiên cứu, tỉ số chênh (OR) 1.00, 95%CI 0.79–1.27, I2 = 0%) và hội chứng kháng phospholipid (ba nghiên cứu, OR 1.04, 95% CI 0.86–1.25, I2 = 0%), các nhà nghiên cứu đã tìm ra bằng chứng chất lượng thấp về sự không khác biệt tần suất xét nghiệm bất thường giữa nhóm có hai so với nhóm có ba lần sẩy thai trở lên.
Không có đủ bằng chứng về sự khác biệt tần suất xét nghiệm bất thường giữa nhóm có hai lần so với nhóm có ba lần sẩy thai trở lên, gồm bất thường nhiễm sắc thể (10 nghiên cứu, OR 0.78, 95% CI 0.55–1.10), hội chứng tăng đông di truyền (5 nghiên cứu) vả bất thường tuyến giáp (2 nghiên cứu, OR 0.52, 95% CI: 0.06–4.56). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu không thể loại trừ sự khác biệt về tần suất bất thường nhiễm sắc thể, hội chứng tăng đông di truyền, và bất thường tuyến giáp giữa hai nhóm.
Các kết quả của tổng quan hệ thống này có thể ủng hộ cho việc thực hiện khảo sát sau khi sẩy thai 2 lần ở các trường hợp STLT, nhưng vẫn rất cần thêm các nghiên cứu về giá trị tiên lượng của các kết quả xét nghiệm được sử dụng cho nhóm STLT. Hiện vẫn không có phương pháp điều trị dựa trên chứng cứ trong đa số các trường hợp khi kết quả xét nghiệm bất thường.
Nguồn: Myrthe M van Dijk, et al. Recurrent pregnancy loss: diagnostic workup after two or three pregnancy losses? A systematic review of the literature and meta-analysis, Human Reproduction Update, Volume 26, Issue 3, May-June 2020, Pages 356–367, https://doi.org/10.1093/humupd/dmz048.
Sẩy thai liên tiếp (STLT) xảy ra trong 1-3% các cặp vợ chồng. Hiện vẫn không có sự đồng thuận nào về thời điểm thực hiện các xét nghiệm đánh giá nguy cơ cho các cặp vợ chồng bị STLT. Một số hướng dẫn khuyến cáo xét nghiệm nếu bệnh nhân có hai lần sẩy thai, trong khi đó số khác khuyên nên kiểm tra sau ba lần.
Dijk và cộng sự thực hiện tổng quan hệ thống này nhằm đánh giá các chứng cứ hiện có về tần suất bất thường của các xét nghiệm được thực hiện trên nhóm bệnh nhân có hai so với ba lần sẩy thai trở lên. Nghiên cứu cũng nhằm mục đích cung cấp thêm thông tin để xem xét thời điểm thích hợp để tiếp cận STLT là sau hai hay ba lần sẩy thai trở lên.
Các nghiên cứu liên quan được xác định bởi một cuộc tìm kiếm hệ thống trên OVID Medline và EMBASE từ lúc khởi đầu đến tháng 03/ 2019. Từ khoá tìm kiếm bao gồm STLT kết hợp với một phổ thuật ngữ rộng như số lần sẩy thai, xét nghiệm/sàng lọc sẩy thai hoặc tần suất các yếu tố nguy cơ đã biết. Phân tích gộp được thực hiện trong trường hợp các nghiên cứu đồng nhất về lâm sàng và thống kê. Chất lượng của các nghiên cứu được đánh giá bằng thang Newcastle-Ottawa.
Trong tổng số 1985 công bố được xác định, 21 nghiên cứu được nhận vào tổng quan hệ thống và 19 nghiên cứu thích hợp để phân tích gộp. Đối với những bất thường tử cung (bảy nghiên cứu, tỉ số chênh (OR) 1.00, 95%CI 0.79–1.27, I2 = 0%) và hội chứng kháng phospholipid (ba nghiên cứu, OR 1.04, 95% CI 0.86–1.25, I2 = 0%), các nhà nghiên cứu đã tìm ra bằng chứng chất lượng thấp về sự không khác biệt tần suất xét nghiệm bất thường giữa nhóm có hai so với nhóm có ba lần sẩy thai trở lên.
Không có đủ bằng chứng về sự khác biệt tần suất xét nghiệm bất thường giữa nhóm có hai lần so với nhóm có ba lần sẩy thai trở lên, gồm bất thường nhiễm sắc thể (10 nghiên cứu, OR 0.78, 95% CI 0.55–1.10), hội chứng tăng đông di truyền (5 nghiên cứu) vả bất thường tuyến giáp (2 nghiên cứu, OR 0.52, 95% CI: 0.06–4.56). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu không thể loại trừ sự khác biệt về tần suất bất thường nhiễm sắc thể, hội chứng tăng đông di truyền, và bất thường tuyến giáp giữa hai nhóm.
Các kết quả của tổng quan hệ thống này có thể ủng hộ cho việc thực hiện khảo sát sau khi sẩy thai 2 lần ở các trường hợp STLT, nhưng vẫn rất cần thêm các nghiên cứu về giá trị tiên lượng của các kết quả xét nghiệm được sử dụng cho nhóm STLT. Hiện vẫn không có phương pháp điều trị dựa trên chứng cứ trong đa số các trường hợp khi kết quả xét nghiệm bất thường.
Nguồn: Myrthe M van Dijk, et al. Recurrent pregnancy loss: diagnostic workup after two or three pregnancy losses? A systematic review of the literature and meta-analysis, Human Reproduction Update, Volume 26, Issue 3, May-June 2020, Pages 356–367, https://doi.org/10.1093/humupd/dmz048.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Thiền định và chánh niệm giúp giảm căng thẳng ở bệnh nhân sẩy thai liên tiếp - Ngày đăng: 20-05-2021
Progestogens trong điều trị sẩy thai - Ngày đăng: 20-05-2021
Sẩy thai liên tiếp - Ngày đăng: 20-05-2021
Ảnh hưởng của việc điều trị trước bằng thuốc tránh thai đường uống lên kết quả chuyển phôi tươi và tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn ở những phụ nữ điều trị IVF có kinh nguyệt bình thường - Ngày đăng: 20-05-2021
Tác động của việc chuyển hai phôi và chuyển lần lượt đơn phôi đến tỷ lệ đa thai - Ngày đăng: 19-05-2021
Phương pháp lựa chọn tế bào bằng hoạt hóa từ tính (Magnetic Activated Cell Sorting - MACS): Phương pháp chọn lọc tinh trùng hiệu quả trong trường hợp phân mảnh dna tinh trùng ở mức độ cao - Ngày đăng: 18-05-2021
Chọn lọc tinh trùng bằng phương pháp dòng vi lỏng có giúp cải thiện tỷ lệ thành công trong ART ở nhóm vô sinh nam hay không? - Ngày đăng: 18-05-2021
ATP là yếu tố tạo nên sự khác biệt khi dùng Sr2+ để kích hoạt dao động Ca2+ trong noãn chuột và noãn người - Ngày đăng: 15-05-2021
Hiệu quả điều trị khi ICSI sử dụng mẫu tinh trùng TESE tươi so với mẫu tinh trùng TESE trữ lạnh - Ngày đăng: 15-05-2021
Nuôi cấy phôi dài ngày làm tăng nguy cơ sinh đôi đồng hợp tử, nhưng không liên quan đến các thao tác trên màng trong suốt hay quy trình trữ - rã phôi - Ngày đăng: 15-05-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK