Tin tức
on Thursday 20-05-2021 8:38pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Lê Tiểu My - Bệnh viện Mỹ Đức
Những bệnh nhân sẩy thai liên tiếp (STLT) thường đặt ra những câu hỏi rất khó, ví dụ: nguyên nhân là gì, cần xét nghiệm gì, tỷ lệ tái phát thai kỳ sau, những phương án điều trị nào có hiệu quả?
Câu chuyện thường gặp là: các nhà lâm sàng chỉ định rất nhiều xét nghiệm, bệnh nhân sẽ khám rất nhiều nơi và có thể được tư vấn nhiều cách điều trị khác nhau. Nguyên nhân là vì hiện nay các hướng dẫn thực hành về STLT cũng rất khác biệt. Hướng dẫn mới nhất về STLT của Anh năm 2021 gồm 93 khuyến cáo, của ESHRE năm 2018 gồm 77 khuyến cáo. Tuy vậy, thực hành lâm sàng vẫn gặp nhiều khó khăn khi tư vấn và xử trí một trường hợp STLT.
The Lancet vừa đăng loạt bài về sẩy thai, trong đó có hướng dẫn về STLT dựa trên tổng hợp các bằng chứng mới nhất theo hướng dẫn thực hành của NIH, ESHRE, ACOG và ASRM, với các thông chính sau đây:
Các xét nghiệm hữu ích trong khảo sát STLT: lupus anticoagulation, kháng thể kháng cardiolipin, chức năng tuyến giáp, siêu âm đánh giá vùng chậu qua ngả âm đạo. Phân tích nhiễm sắc thể mô thai có thể thực hiện nhằm mục đích tư vấn cho bệnh nhân. Xét nghiệm nhiễm sắc thể đồ cặp vợ chồng có thể có ích trong một số trường hợp.
Dự phòng sẩy thai ở nhóm nguy cơ cao: hiện nay chưa có chứng cứ đủ mạnh về các phương pháp điều trị dự phòng ở các trường hợp nguy cơ sẩy thai cao. Chứng cứ mức độ trung bình cho thấy progestogen (đặc biệt là progesterone vi hạt đặt âm đạo) có thể tăng tỷ lệ sinh sống ở nhóm STLT và levothyroxine có thể giảm nguy cơ sẩy thai ở nhóm bệnh nhân suy giáp dưới lâm sàng (nồng độ TSH >4 mIU/L). Chứng cứ mức độ thấp cho thấy kết hợp aspirin và heparin có thể cải thiện tỷ lệ sinh sống ở bệnh nhân kháng phospholipid và tiền sử STLT.
Mô hình chăm sóc cần có sự cân bằng giữa quản lý dựa trên bằng chứng và chăm sóc phù hợp với nguồn nhân lực. Mô hình thích hợp có thể thay đổi tùy theo hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện hành, chiến lược phát triển và các nguồn lực sẵn có. Cách tiếp cận được khuyến cáo theo đồng thuận ở Vương quốc Anh vào tháng 12 năm 2019: trường hợp sẩy thai lần đầu, bệnh nhân sẽ tư vấn trực tiếp, tầm soát các yếu tố nguy cơ và tư vấn tiền sản. Sau khi sẩy thai lần thứ hai, bệnh nhân được chăm sóc tích cực hơn do y tá hoặc hộ sinh hướng dẫn, kiểm tra thích hợp và siêu âm tầm soát để đảm bảo cho lần mang thai tiếp theo. Sau khi sẩy thai lần thứ ba trở lên, bệnh nhân được tư vấn bởi các chuyên gia, hướng dẫn thực hiện các khảo sát và can thiệp về sẩy thai liên tiếp.
Bảng tóm tắt các khảo sát trong sẩy thai liên tiếp.
Lược dịch từ: Coomarasamy, A., et al, 2021. Recurrent miscarriage: evidence to accelerate action. The Lancet 397, 1675–1682. https://doi.org/10.1016/S0140-6736(21)00681-4.
Những bệnh nhân sẩy thai liên tiếp (STLT) thường đặt ra những câu hỏi rất khó, ví dụ: nguyên nhân là gì, cần xét nghiệm gì, tỷ lệ tái phát thai kỳ sau, những phương án điều trị nào có hiệu quả?
Câu chuyện thường gặp là: các nhà lâm sàng chỉ định rất nhiều xét nghiệm, bệnh nhân sẽ khám rất nhiều nơi và có thể được tư vấn nhiều cách điều trị khác nhau. Nguyên nhân là vì hiện nay các hướng dẫn thực hành về STLT cũng rất khác biệt. Hướng dẫn mới nhất về STLT của Anh năm 2021 gồm 93 khuyến cáo, của ESHRE năm 2018 gồm 77 khuyến cáo. Tuy vậy, thực hành lâm sàng vẫn gặp nhiều khó khăn khi tư vấn và xử trí một trường hợp STLT.
The Lancet vừa đăng loạt bài về sẩy thai, trong đó có hướng dẫn về STLT dựa trên tổng hợp các bằng chứng mới nhất theo hướng dẫn thực hành của NIH, ESHRE, ACOG và ASRM, với các thông chính sau đây:
Các xét nghiệm hữu ích trong khảo sát STLT: lupus anticoagulation, kháng thể kháng cardiolipin, chức năng tuyến giáp, siêu âm đánh giá vùng chậu qua ngả âm đạo. Phân tích nhiễm sắc thể mô thai có thể thực hiện nhằm mục đích tư vấn cho bệnh nhân. Xét nghiệm nhiễm sắc thể đồ cặp vợ chồng có thể có ích trong một số trường hợp.
Dự phòng sẩy thai ở nhóm nguy cơ cao: hiện nay chưa có chứng cứ đủ mạnh về các phương pháp điều trị dự phòng ở các trường hợp nguy cơ sẩy thai cao. Chứng cứ mức độ trung bình cho thấy progestogen (đặc biệt là progesterone vi hạt đặt âm đạo) có thể tăng tỷ lệ sinh sống ở nhóm STLT và levothyroxine có thể giảm nguy cơ sẩy thai ở nhóm bệnh nhân suy giáp dưới lâm sàng (nồng độ TSH >4 mIU/L). Chứng cứ mức độ thấp cho thấy kết hợp aspirin và heparin có thể cải thiện tỷ lệ sinh sống ở bệnh nhân kháng phospholipid và tiền sử STLT.
Mô hình chăm sóc cần có sự cân bằng giữa quản lý dựa trên bằng chứng và chăm sóc phù hợp với nguồn nhân lực. Mô hình thích hợp có thể thay đổi tùy theo hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện hành, chiến lược phát triển và các nguồn lực sẵn có. Cách tiếp cận được khuyến cáo theo đồng thuận ở Vương quốc Anh vào tháng 12 năm 2019: trường hợp sẩy thai lần đầu, bệnh nhân sẽ tư vấn trực tiếp, tầm soát các yếu tố nguy cơ và tư vấn tiền sản. Sau khi sẩy thai lần thứ hai, bệnh nhân được chăm sóc tích cực hơn do y tá hoặc hộ sinh hướng dẫn, kiểm tra thích hợp và siêu âm tầm soát để đảm bảo cho lần mang thai tiếp theo. Sau khi sẩy thai lần thứ ba trở lên, bệnh nhân được tư vấn bởi các chuyên gia, hướng dẫn thực hiện các khảo sát và can thiệp về sẩy thai liên tiếp.
Bảng tóm tắt các khảo sát trong sẩy thai liên tiếp.
Có bằng chứng về liên quan giữa kết quả XN và sẩy thai không? | Có bằng chứng về liên quan nguy cơ sẩy thai không? | Có bằng chứng kết quả XN có giá trị tiên lượng không? | Có bằng chứng trị liệu dựa trên kết quả XN có thể cải thiện kết cục? | |
Kháng thể kháng phospholipid: lupus anticoagulation và kháng thể kháng cardiolipin | Có | Có | Có | Chứng cứ yếu |
Beta-2-glycoprotein 1 | Có thể | Có thể | Không có dữ liệu | Không có dữ liệu |
Thrombophilia (yếu tố V Leiden, biến thể di truyền prothrombin, biến thể di truyền MTHFR, protein C, protein S và thiếu antithrombin) | Chứng cứ yếu | Không rõ | Có | Không |
Karyotype mô thai | Có | Có | Chứng cứ yếu | Không |
Xét nghiệm di truyền bố mẹ | Có | Có | Có | Không (tuy nhiên có thể XN cho những thai kỳ sau) |
Xét nghiệm chức năng tuyến giáp Suy giáp Suy giáp dưới lâm sàng |
Chỉ trường hợp sẩy thai không liên tục
Có |
Chỉ trường hợp sẩy thai không liên tục |
Có
Không rõ |
Có Không rõ |
Kháng thể kháng giáp | Có | Có | Có | Không |
Siêu âm chẩn đoán dị tật tử cung bẩm sinh | Có | Có thể | Không có dữ liệu | Ít dữ liệu |
XN miễn dịch (tương thích với kháng nguyên bạch cầu người, kháng nguyên bạch cầu người II, kháng nguyên bạch cầu người-G, KIR và kháng nguyên bạch cầu người-C, cytokine và tế bào tìm diệt tự nhiên) | Ít dữ liệu | Ít dữ liệu | Không có dữ liệu | Không có dữ liệu |
Anti-HY immunity | Trung bình | Có | Có | Không có dữ liệu |
Kháng thể kháng nhân | Có | Ít dữ liệu | Không rõ | Không có dữ liệu |
XN nội tiết và siêu âm: PCOS | Có | Có | Không | Có thể (metformin) |
Vitamin D | Có thể | Có thể | Ít dữ liệu | Không có dữ liệu |
XN phân mảnh DNA tinh trùng | Trung bình | Có thể | Không rõ | Không |
Nguồn: ESHRE |
Lược dịch từ: Coomarasamy, A., et al, 2021. Recurrent miscarriage: evidence to accelerate action. The Lancet 397, 1675–1682. https://doi.org/10.1016/S0140-6736(21)00681-4.
Từ khóa: Sẩy thai liên tiếp
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của việc điều trị trước bằng thuốc tránh thai đường uống lên kết quả chuyển phôi tươi và tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn ở những phụ nữ điều trị IVF có kinh nguyệt bình thường - Ngày đăng: 20-05-2021
Tác động của việc chuyển hai phôi và chuyển lần lượt đơn phôi đến tỷ lệ đa thai - Ngày đăng: 19-05-2021
Phương pháp lựa chọn tế bào bằng hoạt hóa từ tính (Magnetic Activated Cell Sorting - MACS): Phương pháp chọn lọc tinh trùng hiệu quả trong trường hợp phân mảnh dna tinh trùng ở mức độ cao - Ngày đăng: 18-05-2021
Chọn lọc tinh trùng bằng phương pháp dòng vi lỏng có giúp cải thiện tỷ lệ thành công trong ART ở nhóm vô sinh nam hay không? - Ngày đăng: 18-05-2021
ATP là yếu tố tạo nên sự khác biệt khi dùng Sr2+ để kích hoạt dao động Ca2+ trong noãn chuột và noãn người - Ngày đăng: 15-05-2021
Hiệu quả điều trị khi ICSI sử dụng mẫu tinh trùng TESE tươi so với mẫu tinh trùng TESE trữ lạnh - Ngày đăng: 15-05-2021
Nuôi cấy phôi dài ngày làm tăng nguy cơ sinh đôi đồng hợp tử, nhưng không liên quan đến các thao tác trên màng trong suốt hay quy trình trữ - rã phôi - Ngày đăng: 15-05-2021
Đồng thuận Cairo về điều kiện nuôi cấy trong IVF “Chỉ có một điều thực sự quan trọng trong một phòng lab thụ tinh ống nghiệm, đó là: tất cả mọi thứ” (phần II) - Ngày đăng: 05-05-2021
Đồng thuận Cairo về điều kiện nuôi cấy trong IVF “Chỉ có một điều thực sự quan trọng trong một phòng lab thụ tinh ống nghiệm, đó là: tất cả mọi thứ” (Phần I) - Ngày đăng: 05-05-2021
Phương pháp hỗ trợ phôi thoát màng bằng laser có tốt hơn bằng cơ học trong việc cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng ở chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh? - Ngày đăng: 05-05-2021
SIÊU ÂM THAI PHỤ NHIỄM SARS-CoV-2 - Ngày đăng: 04-05-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK