Tin tức
on Tuesday 04-05-2021 10:14pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Lê Tiểu My
Hiện nay, thông tin về siêu âm cho những thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 vẫn chưa nhiều. Một nghiên cứu với vấn đề “các chỉ số trên siêu âm và thông số Doppler ở nhóm bệnh nhân dương tính SARS-CoV-2 có gì khác biệt so với những thai phụ âm tính với virus” được đặt ra và kết quả vừa được công bố trên tạp chí Siêu âm Sản phụ khoa.
Tổng cộng có 106 bà mẹ mang thai xác định mắc COVID-19 dựa trên tiêu chuẩn xét nghiệm SARS-CoV-2 dương tính tại thời điểm siêu âm hoặc trong vòng một tuần tại thời điểm khảo sát. Trong số đó có 49 trường hợp có triệu chứng và 57 trường hợp không biểu hiện triệu chứng. Việc siêu âm đánh giá có thể là quy trình đánh giá thường quy hoặc chỉ định khảo sát do nhiễm bệnh. Nhóm chứng để so sánh bao gồm 103 phụ nữ mang thai tương đồng về độ tuổi, tiền sử sản khoa, chỉ số khối cơ thể và tuổi thai tại thời điểm siêu âm. Siêu âm được thực hiện nhằm đánh giá sinh trắc thai nhi, cấu trúc giải phẫu, lượng nước ối, chỉ số Doppler của động mạch rốn và động mạch não giữa, chỉ số não – nhau và trắc đồ sinh vật lý (biophysical profile- BPP). Kết cục chính bao gồm các kết cục bất lợi của thai như thai nhỏ so với tuổi thai, thiểu ối, trắc đồ sinh vật lý bất thường, các bất thường trên Doppler và thai chết. So sánh tỷ lệ bệnh, kết cục sản khoa và sơ sinh giữa hai nhóm, cho thấy:
Lược dịch từ: Soto‐Torres, E., Andrade, E. H., Huntley, E., Mendez‐Figueroa, H., & Blackwell, S. C. (2021). Ultrasound and Doppler findings in pregnant SARS‐CoV‐2 positive women. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology.
Hiện nay, thông tin về siêu âm cho những thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 vẫn chưa nhiều. Một nghiên cứu với vấn đề “các chỉ số trên siêu âm và thông số Doppler ở nhóm bệnh nhân dương tính SARS-CoV-2 có gì khác biệt so với những thai phụ âm tính với virus” được đặt ra và kết quả vừa được công bố trên tạp chí Siêu âm Sản phụ khoa.
Tổng cộng có 106 bà mẹ mang thai xác định mắc COVID-19 dựa trên tiêu chuẩn xét nghiệm SARS-CoV-2 dương tính tại thời điểm siêu âm hoặc trong vòng một tuần tại thời điểm khảo sát. Trong số đó có 49 trường hợp có triệu chứng và 57 trường hợp không biểu hiện triệu chứng. Việc siêu âm đánh giá có thể là quy trình đánh giá thường quy hoặc chỉ định khảo sát do nhiễm bệnh. Nhóm chứng để so sánh bao gồm 103 phụ nữ mang thai tương đồng về độ tuổi, tiền sử sản khoa, chỉ số khối cơ thể và tuổi thai tại thời điểm siêu âm. Siêu âm được thực hiện nhằm đánh giá sinh trắc thai nhi, cấu trúc giải phẫu, lượng nước ối, chỉ số Doppler của động mạch rốn và động mạch não giữa, chỉ số não – nhau và trắc đồ sinh vật lý (biophysical profile- BPP). Kết cục chính bao gồm các kết cục bất lợi của thai như thai nhỏ so với tuổi thai, thiểu ối, trắc đồ sinh vật lý bất thường, các bất thường trên Doppler và thai chết. So sánh tỷ lệ bệnh, kết cục sản khoa và sơ sinh giữa hai nhóm, cho thấy:
- Nhóm thai phụ có SARS‐CoV‐2 dương tính, 82,1% có BMI > 25,0 kg/m2 và có tỷ lệ mắc đái tháo đường cao hơn nhóm chứng (lần lượt là 26/106 (24,5%) so với 13/103 (12,6%), p = 0,03). Tỷ lệ tiền sản giật ở hai nhóm dương tính SARS‐CoV‐2 và âm tính lần lượt là 21/106 (19,8%) so với 11/105 (10,4%), p = 0,08.
- Tỷ lệ kết cục bất lợi ở trẻ sơ sinh không khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm dương tính SARS‐CoV‐2 và nhóm chứng: 19/106 (17,9%) so với 9/103 (8,7%), p = 0,06.
- Không có sự khác biệt về tỷ lệ thai nhỏ so với tuổi thai ở nhóm nghiên cứu và nhóm chứng: 12 / 106 (11,3%) so với 6/103 (5,8%), p = 0,17.
- Doppler bất thường ở nhóm dương tính SARS‐CoV‐2 là 8/106 (7,5%) so với nhóm chứng là 2/103 (1,9%), p = 0,08.
- BPP bất thường: 4/106 (3,7%) so với 0/103 (0%) lần lượt ở nhóm dương tính với SARS‐CoV‐2 và nhóm chứng.
- Ở nhóm dương tính SARS‐CoV‐2 ghi nhận có hai trường hợp thai chết lưu và tỷ lệ sinh non trước 35 tuần cao hơn (22/106 so với 9/103, OR 2,37 [1,14‐4,91], p = 0,01).
Lược dịch từ: Soto‐Torres, E., Andrade, E. H., Huntley, E., Mendez‐Figueroa, H., & Blackwell, S. C. (2021). Ultrasound and Doppler findings in pregnant SARS‐CoV‐2 positive women. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology.
Từ khóa: SIÊU ÂM THAI PHỤ NHIỄM SARS-CoV-2
Các tin khác cùng chuyên mục:
Các yếu tố rủi ro đối với các cặp sinh đôi cùng trứng trong các chu kỳ IVF-ICSI: Một nghiên cứu bệnh - chứng - Ngày đăng: 04-05-2021
Ảnh hưởng của thừa cân và bệnh vẩy nến ở phụ nữ điều trị bằng kĩ thuật ICSI và tình trạng sức khỏe của trẻ sơ sinh - Ngày đăng: 04-05-2021
Hình thái ICM có khả năng tiên lượng mạnh nhất tỉ lệ sinh sống trong chu kỳ chuyển đơn phôi trữ - Ngày đăng: 30-04-2021
Chuyển phôi đông lạnh có tỷ lệ sẩy thai do bất thường nhiễm sắc thể thấp hơn trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 30-04-2021
Hoạt hóa noãn cải thiện kết quả sinh sản ở những cặp đôi vô sinh đa nguyên nhân: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 30-04-2021
Noãn và hợp tử người có thể được thủy tinh hóa chỉ sau 2 phút trong môi trường trữ với các CPA tiêu chuẩn - Ngày đăng: 30-04-2021
Tác động của địa điểm và thời gian xử lý mẫu tinh dịch lên các thông số tinh trùng và kết quả IVF/ICSI - Ngày đăng: 30-04-2021
Khả năng thu nhận tinh trùng và kết quả ICSI ở nam giới vô tinh không do tắc: một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích cộng gộp - Ngày đăng: 28-04-2021
Mối tương quan giữa đặc điểm hình thái phôi 3PN và nguy cơ bất thường NST ở các chu kỳ ICSI - Ngày đăng: 28-04-2021
Nồng độ của các nội tiết tố và các đặc điểm chẩn đoán của Hội chứng buồng trứng đa nang ở thanh thiếu niên - Ngày đăng: 28-04-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK