Tin tức
on Tuesday 29-09-2020 3:26pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH_Trần Hà Lan Thanh_IVFMD Phú Nhuận
Chiến lược trữ phôi toàn bộ (TPTB) ra đời đã hạn chế những ảnh hưởng không tốt của kích thích buồng trứng (KTBT) trong chu kỳ điều trị như nguy cơ quá kích buồng trứng (OHSS), KTBT làm nồng độ hormone estradiol (E2) và progesterone (P) cao hơn mức sinh lý bình thường dẫn đến ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung. Tuy nhiên, các nghiên cứu lâm sàng về hiệu quả TPTB về kết cục điều trị vẫn hạn chế.
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) cho thấy TPTB cho kết quả mang thai lâm sàng cao hơn ở phụ nữ đáp ứng buồng trứng bình thường và cao. Còn theo 1 nghiên cứu khác ở phụ nữ bị thất bại làm tổ trước đó, chu kỳ TPTB cho tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn có ý nghĩa thống kê so với chu kỳ chuyển phôi tươi. Gần đây hơn, bốn RCT so sánh chu kỳ chuyển phôi tươi và TPTB đã được công bố. Trong tất cả các RCT này, số lượng noãn trung bình thu được là 12 và chuyển phôi phân chia trong 3 RCT. Chen và cộng sự báo cáo rằng chiến lược TPTB làm tăng tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) ở phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS). Còn trong một RCT chuyển phôi nang, Wei và cộng sự đã cho thấy chuyển đơn phôi nang trữ lạnh cho tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với chuyển đơn phôi nang tươi. Hai RCT kia không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa chu kỳ TPTB và chu kỳ chuyển tươi.
Mối liên hệ giữa số lượng noãn và chiến lược TPTB đã được báo cáo trong 2 nghiên cứu hồi cứu. Tuy nhiên, những nghiên cứu này có quần thể bệnh nhân không đồng nhất về độ tuổi của phụ nữ và tuổi phôi chuyển. Ngoài ra, các nghiên cứu trên không thể phân biệt các chu kỳ TPTB được tự chọn với các chu kỳ buộc phải TPTB do nguy cơ OHSS sớm. Mục đích của nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này là để so sánh tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn (CLBR) sau khi chuyển phôi nang giữa các chu kỳ TPTB được tự chọn (electively freeze-all, e-FET) và những chu kỳ chuyển phôi tươi trước khi chuyển phôi trữ tiếp sau đó theo số lượng noãn chọc hút trong chu kỳ KTBT.
Tổng cộng 2523 bệnh nhân đang điều trị chu kỳ chuyển phôi nang tươi (ET, n=1047) hoặc trữ lạnh được tự chọn (e-FET, n=1476). Các bệnh nhân được chia thành bốn nhóm nhỏ theo số lượng noãn chọc hút như sau: Nhóm A: 1–5, nhóm B: 6–10, nhóm C: 11–15 và nhóm D: 16–25 noãn chọc hút. Kết cục chính là CLBR. Các kết cục phụ là tỷ lệ OHSS, tỷ lệ trẻ sinh sống sau chuyển phôi lần đầu tiên.
Các kết quả thu được là:
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) cho thấy TPTB cho kết quả mang thai lâm sàng cao hơn ở phụ nữ đáp ứng buồng trứng bình thường và cao. Còn theo 1 nghiên cứu khác ở phụ nữ bị thất bại làm tổ trước đó, chu kỳ TPTB cho tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn có ý nghĩa thống kê so với chu kỳ chuyển phôi tươi. Gần đây hơn, bốn RCT so sánh chu kỳ chuyển phôi tươi và TPTB đã được công bố. Trong tất cả các RCT này, số lượng noãn trung bình thu được là 12 và chuyển phôi phân chia trong 3 RCT. Chen và cộng sự báo cáo rằng chiến lược TPTB làm tăng tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) ở phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS). Còn trong một RCT chuyển phôi nang, Wei và cộng sự đã cho thấy chuyển đơn phôi nang trữ lạnh cho tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với chuyển đơn phôi nang tươi. Hai RCT kia không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa chu kỳ TPTB và chu kỳ chuyển tươi.
Mối liên hệ giữa số lượng noãn và chiến lược TPTB đã được báo cáo trong 2 nghiên cứu hồi cứu. Tuy nhiên, những nghiên cứu này có quần thể bệnh nhân không đồng nhất về độ tuổi của phụ nữ và tuổi phôi chuyển. Ngoài ra, các nghiên cứu trên không thể phân biệt các chu kỳ TPTB được tự chọn với các chu kỳ buộc phải TPTB do nguy cơ OHSS sớm. Mục đích của nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này là để so sánh tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn (CLBR) sau khi chuyển phôi nang giữa các chu kỳ TPTB được tự chọn (electively freeze-all, e-FET) và những chu kỳ chuyển phôi tươi trước khi chuyển phôi trữ tiếp sau đó theo số lượng noãn chọc hút trong chu kỳ KTBT.
Tổng cộng 2523 bệnh nhân đang điều trị chu kỳ chuyển phôi nang tươi (ET, n=1047) hoặc trữ lạnh được tự chọn (e-FET, n=1476). Các bệnh nhân được chia thành bốn nhóm nhỏ theo số lượng noãn chọc hút như sau: Nhóm A: 1–5, nhóm B: 6–10, nhóm C: 11–15 và nhóm D: 16–25 noãn chọc hút. Kết cục chính là CLBR. Các kết cục phụ là tỷ lệ OHSS, tỷ lệ trẻ sinh sống sau chuyển phôi lần đầu tiên.
Các kết quả thu được là:
- CLBR tương tự giữa các nhánh ET và e-FET trong nhóm A (35/76 (46,1%) so với 29/67 (43,3%), p = 0,74) và nhóm B (165/275 (60%) so với 216/324 (66,7%), p = 0,091), trong khi tỷ lệ cao hơn đáng kể ở nhánh e-FET trong nhóm C (328/460 (71,3%) so với ET trong nhóm C là 201/348 (57,8%), p <0,001) và nhóm D (227/348 (65,2%) so với ET trong nhóm D là 446/625 (71,5%), p <0,001).
- Tỷ lệ OHSS cũng được tìm thấy cao hơn ở nhánh ET nhóm C (12/348 (3,4%) so với e-FET nhóm C là 0/460 (0%), p <0,001) và nhóm D (38/348 (10,9%) so với e-FET nhóm D là 3/625 (0,5%), p <0,001).
- Kết quả chu sinh và sản khoa không có sự khác biệt rõ rệt giữa ET và e-FET. Tuy nhiên, cân nặng trẻ sơ sinh thấp hơn đáng kể ở nhóm ET (p <0,001).
Như vậy, so với chiến lược chuyển phôi tươi thì chiến lược e-FET cho kết quả CLBR cao hơn ở những bệnh nhân có > 10 noãn chọc hút trong các chu kỳ KTBT.
Nguồn: Impact of elective frozen vs. fresh embryo transfer strategies on cumulative live birth: Do deleterious effects still exist in normal & hyper responders? PLOSONE, 2020, http://dx.doi.org/10.1371/journal.pone.0234481
Nguồn: Impact of elective frozen vs. fresh embryo transfer strategies on cumulative live birth: Do deleterious effects still exist in normal & hyper responders? PLOSONE, 2020, http://dx.doi.org/10.1371/journal.pone.0234481
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hội chứng rối loạn tăng động giảm chú ý ở trẻ liên quan đến sự thiếu hụt Vitamin D trong thai kỳ - Ngày đăng: 26-09-2020
Tăng huyết áp trong thai kỳ - Ngày đăng: 26-09-2020
Mô hình quyết định nên chuyển phôi tươi hay trữ phôi toàn bộ trên đối tượng có nguy cơ quá kích buồng trứng thể nặng sau khi tiêm mũi trưởng thành noãn bằng hCG? - Ngày đăng: 26-09-2020
Xác định đồng thời sự hiện diện của nicotine, cotinine và nicotine N-oxide trong huyết tương, tinh dịch và tinh trùng người bằng LC-Orbitrap MS - Ngày đăng: 26-09-2020
Hút cần sa và kết quả điều trị vô sinh bằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 26-09-2020
Hút thuốc và chất lượng tinh dịch: Một phân tích gộp mới nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp xét nghiệm tinh dịch đồ của WHO 2010 lên kết quả tinh dịch ở nam giới - Ngày đăng: 26-09-2020
Đột biến mất Gene GSTT1 là một yếu tố nguy cơ hình thành hội chứng buồng trứng đa nang ở phụ nữ vô sinh - Ngày đăng: 25-09-2020
Phát hiện kháng thể kháng tinh trùng bằng xét nghiệm mar cải tiến - Ngày đăng: 25-09-2020
Điều trị viêm âm đạo khi mang thai - Ngày đăng: 25-09-2020
Vai trò của các tế bào kẽ trong sự phát triển và chức năng tinh hoàn - Ngày đăng: 25-09-2020
Mô hình mô phỏng 3D – Microtese và khả năng thu nhận tinh trùng ở bệnh nhân vô tinh không bế tắc - Ngày đăng: 25-09-2020
Cắt bỏ một phần tinh hoàn và khả năng sinh sản ở nam giới bị ung thư tinh hoàn - Ngày đăng: 25-09-2020
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK