Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 14-06-2019 9:04am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
Lựa chọn đúng phôi chuyển nhằm tăng tỉ lệ thai, đồng thời giảm số phôi chuyển, giảm tỉ lệ đa thai là một thách thức hàng đầu cho chuyên viên phôi học trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản. Hiện nay, phần lớn việc chọn phôi chủ yếu dựa vào hình thái. Tuy nhiên, phương pháp này có giá trị dự đoán thấp. Có nhiều phương pháp mới giúp cải thiện việc lựa chọn phôi có tiềm năng nhằm tăng tỉ lệ thành công trong điều trị IVF. Trong đó, hệ thống nuôi cấy phôi kết hợp với camera quan sát liên tục (TLM: time-lapse monitoring) cho phép đánh giá chi tiết hình thái phôi, cung cấp các thông số động học và công cụ lựa chọn phôi. TLM giúp lựa chọn phôi tiềm năng làm tổ tốt hơn, dẫn đến tỉ lệ trẻ sinh cao hơn so với nuôi cấy tủ thông thường (Basile et al.,.2017). Tuy nhiên, giá trị lâm sàng của time-lapse chỉ được công nhận ở một vài nghiên cứu.



Vì thế, Armstrong và cộng sự (2018), đã tiến hành tổng hợp phân tích đăng trên Cochrane. Tổng quan gồm 8 bài nghiên cứu RCT từ năm 2010-2017 với 2.303 bệnh nhân với 3 kiểu thiết kế nghiên cứu đoàn hệ: (1) TLM + đánh giá hình thái của hình ảnh ghi nhận bằng TLM so với nuôi cấy thường + lựa chọn phôi bằng hình thái, (2) TLM + phần mềm lựa chọn phôi so với nuôi cấy thường + lựa chọn phôi bằng hình thái, (3) TLM + phần mềm lựa chọn phôi so với nuôi cấy thường + lựa chọn phôi bằng hình thái.

Kết quả phân tích:
Theo thiết kế 1, cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ trẻ sinh sống (OR= 0,73; 95%CI 0,47 -1,13, 2 RCT, N = 440, I2 = 11%, chất lượng chứng cứ chấp nhận được), tỉ lệ sẩy thai ở 2 nhóm (OR 2,25; 95% CI 0,84 - 6,02; 2 RCTs, N = 440, I2 = 44%, chất lượng chứng cứ thấp), tỉ lệ sinh non (OR = 1,00; 95% CI 0,13 – 7,49, 1 RCT, N = 76, chất lượng chứng cứ thấp) và thai lâm sàng (OR = 0,88; 95% CI 0,58 -1,33, 3 RCTs, N = 489, I2 = 0%, chất lượng chứng cứ chấp nhận được).

Theo thiết kế 2, không có số liệu về trẻ sinh sống hoặc sinh non. Không có sự khác biệt về tỉ lệ sẩy thai (OR 1,39; 95% CI 0,64 - 3,01, 2 RCTs, N = 463, I2 = 0%, chất lượng chứng cứ rất thấp) và tỉ lệ thai lâm sàng (OR 0,97; 95% CI 0,67 - 1,42, 2 RCTs, N = 463, I2 = 0%, chất lượng chứng cứ thấp).

Còn theo thiết kế 3, cũng không có sự khác biệt về tỉ lệ trẻ sinh sống (OR 1,21; 95% CI 0,96 -1,54, 2 RCTs, N = 1017, I2 = 0%, chất lượng chứng cứ rất thấp), tỉ lệ sẩy thai (OR 0,73; 95%CI 0,49- 1,08, 3 RCTs, N = 1351, I2 = 0%, chất lượng chứng cứ rất thấp), thai lâm sàng (OR 1,17, 95% CI 0,94 – 1,45, 3 RCTs, N = 1351, I2 = 42%, chất lượng chứng cứ rất thấp). Chất lượng chứng cứ ở trong khoảng từ rất thấp đến chấp nhận được. Vẫn chưa có dữ liệu về tỉ lệ thai cộng dồn [11].

Mặc dù, tăng TLM giúp chọn lọc phôi có khả năng tạo phôi nang, làm tổ cao, nhưng chưa làm cải thiện kết cục lâm sàng: thai diễn tiến, trẻ sinh sống, giảm tỉ lệ sẩy thai, sinh non. Cần các nghiên cứu RCT hơn trong tương lai nhằm cải thiện chất lượng chứng cứ để được ra khẳng định về sự hiệu quả TLM về kết cục lâm sàng.
 
Trần Hà Lan Thanh _ Chuyên viên phôi học_IVFMD Phú Nhuận

Nguồn: Time-lapse systems for embryo incubation and assessment in assisted reproduction (Review) doi: 10.1002/14651858.CD011320.pub3.www.cochranelibrary.com
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK