Tin tức
on Monday 03-06-2019 3:13pm
Danh mục: Tin quốc tế
Chuyên viên phôi học Trần Hà Lan Thanh, IVFMD Phú Nhuận
Sẩy thai ở ba tháng đầu xảy ra ở 15-20% thai kỳ và trong số đó có 50% được cho là có các bất thường NST của phôi thai (14). Tuy nhiên, vai trò của bất thường NST trong sẩy thai tự phát trong ba tháng đầu ở bệnh nhân PCOS vẫn chưa được kết luận.
Chính vì thế, nhóm tác giả đã nghiên cứu hồi cứu đơn trung tâm xác định mối tương quan giữa PCOS với sẩy thai do bất thường NST trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Tổng cộng có 328 bệnh nhân đã gửi mẫu sinh thiết gai nhau bị sẩy thai trong 3 tháng đầu thai kỳ (tam cá nguyệt thứ nhất) để xét nghiệm di truyền sau khi điều trị TTTON, trong đó có 119 trường hợp là phụ nữ bị PCOS và 209 người không bị PCOS. Các mẫu sinh thiết gai nhau được phân tích bằng phương pháp tính đa hình đơn nucleotide (SNP). Kếtcục chính là tần suất nhiễm sắc thể đồ (karyotype) bất thường của các bào thai bị sẩy và mối tương quan giữa PCOS với sẩy thai do bất thường NST.
Kết quả thu được:
Tổng số 173 (52,7% của 328) mẫu gai nhau đã được xác định là bất thường NST bởi SNP array. Bất thường NST thường gặp hơn ở bệnh nhân PCOS so với nhóm chứng (61,3% so với 47,8%; p=0,019). Hơn nữa, cả phân tích đơn biến và đa biến đều xác định PCOS là yếu tố rủi ro khiến phôi / thai nhi bất thường NST, với OR lần lượt là 1.957 (95%CI, 1.067–3.590) và 2.008 (95% CI, 1,038–3,883).
Kết luận: Phụ nữ bị PCOS có nguy cơ sẩy thai do phôi / thai bất thường nhiễm sắc thể cao hơn so với nhóm phụ nữ không bị PCOS trong điều trị TTTON. Sàng lọc di truyền tiền làm tổ có thể là một cách tiếp cận hiệu quả để giảm nguy cơ sẩy thai tự nhiên cho phụ nữ bị PCOS. Cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn và cần tìm hiểu rõ hơn cơ chế và con đường tín hiệu về sự tương quan bất thường NST với PCOS.
Từ khóa: Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), tính đa hình đơn nucleotide (SNP), sẩy thai ba tháng đầu.
Nguồn: Higher chromosomal aberration rate in miscarried conceptus from polycystic ovary syndrome women undergoing assisted reproductive treatment. doi: 10.1016/j.fertnstert.2019.01.026.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Bức xạ wifi và điện thoại di động và ảnh hưởng đến hệ thống sinh sản nam và nữ - Ngày đăng: 30-05-2019
Đặc điểm của Sarcoma tử cung trên siêu âm - Ngày đăng: 30-05-2019
Điều trị tăng đường huyết sớm trong thai kỳ: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 29-05-2019
Mối tương quan giữa luyện tập thể dục và chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 29-05-2019
Sử dụng Letrozole trong chu kỳ chuyển phôi trữ ở phụ nữ hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 29-05-2019
Yếu tố tiên lượng cho kết quả bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 29-05-2019
Tư vấn hiếm muộn và y đức: làm gì khi cơ hội mong manh - Ngày đăng: 29-05-2019
Sinh non và nguy cơ bệnh thận mạn - Ngày đăng: 23-05-2019
Mối tương quan giữa phân mảnh DNA tinh trùng và động học hình thái phôi ở bệnh nhân trẻ tuổi - Ngày đăng: 23-05-2019
PGT-A và kết quả điều trị trên nhóm bệnh nhân tiên lượng kém - Ngày đăng: 23-05-2019
Kết cục trên mẹ và trẻ sơ sinh khi khởi phát chuyển dạ chủ động ở thai kỳ đủ tháng - Ngày đăng: 23-05-2019
Kết cục lâm sàng của các bệnh nhân khi chuyển đơn phôi giai đoạn phân chia ngày 3 chất lượng kém - Ngày đăng: 23-05-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK