Tin tức
on Wednesday 29-05-2019 3:42pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Lê Khắc Tiến
Nhóm nghiên cứu Nội tiết – Mãn kinh
Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Nhóm nghiên cứu Nội tiết – Mãn kinh
Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Kể từ lần chuyển phôi đông lạnh (FET – frozen-thawed embryo transfer) đầu tiên thành công vào năm 1983, FET đã trở thành một phần không thể thiếu trong quy trình thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (IVF) hay tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI). FET tạo điều kiện lưu trữ các phôi dư từ IVF/ICSI để chuyển trong chu kỳ tiếp theo. FET tăng tỉ lệ thụ thai, giảm chi phí, phòng ngừa hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS - Ovarian hyperstimulation syndrome) khi so sánh với phương pháp chuyển phôi tươi. Hơn nữa, FET còn là phương pháp điều trị vô sinh phổ biến ở phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS). Phụ nữ PCOS thường dễ xuất hiện OHSS hơn, do đó cần giảm tần suất kích thích buồng trứng, nghĩa là giảm sử dụng phôi tươi trong điều trị vô sinh ở phụ nữ PCOS.
Letrozole là một chất ức chế men aromatase thế hệ thứ ba không làm giảm chức năng của thụ thể estrogen và duy trì hoạt động của cơ chế phản hồi lên vùng hạ đồi tuyến yên để kích thích sự phát triển của đoàn hệ noãn, tăng số nang noãn vượt trội và phóng noãn, không gây ra tác dụng phụ trên nội mạc tử cung. Việc sử dụng Letrozole gần đây đã thu hút sự chú ý của các chuyên gia như một phương pháp thay thế hiệu quả cho liệu pháp thay thế hormone (HRT – hormone replacement therapy) hay còn được gọi là chu trình nhân tạo (artificial cycle) trong FET. Tuy nhiên vẫn chưa có nhiều nghiên cứu chứng minh được liệu tỉ lệ sinh sống (LBR - live birth rate) ở những phụ nữ PCOS sau chuyển phôi đông lạnh có chu kỳ được kích thích bằng Letrozole (L-FET letrozole-stimulated cycle) so với chu kỳ nhân tạo (AC-FET) có sự khác biệt hay không. Để làm rõ vấn đề này, tác giả Zhang và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu trên tổng số 2.664 phụ nữ bị PCOS đến khám tại các trung tâm y tế tuyến cuối tại Trung Quốc. Đối tượng nghiên cứu được chia thành hai nhóm: một nhóm sử dụng Letrozole và một nhóm sử dụng liệu pháp thay thế hormone khi chuyển phôi đông lạnh.
Kết quả cho thấy, LBR trong mỗi lần chuyển phôi là tương tự giữa 2 nhóm (54,4% ở nhóm L-FET và 50,7% ở nhóm AC-FET). Tỉ lệ sẩy thai thấp hơn đáng kể ở nhóm L-FET khi so sánh với nhóm AC-FET (9,1% so với 17%). Tuy vậy, sau khi hiệu chỉnh yếu tố gây nhiễu, LBR tăng đáng kể ở nhóm L-FET khi so sánh với nhóm AC-FET (odds ratio hiệu chỉnh [aOR] 1,33, KTC 95% 1,09 – 1,61) và tỷ lệ sẩy thai ở nhóm L-FET vẫn thấp hơn so với nhóm AC-FET (odds ratio hiệu chỉnh [aOR] 0,51, 95% KTC 95% 0,35 – 0,74).
Từ nghiên cứu trên, tác giả Zhang và các cộng sự đưa ra kết luận, ở những phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang được chuyển phôi trữ lạnh, sử dụng Letrozole để chuẩn bị nội mạc tử cung sẽ giúp tăng tỉ lệ thai sống hơn so với chu trình nhân tạo. Để khẳng định kết quả này, cần có thêm nhiều nghiên cứu lâm sàng trong tương lai.
Nguồn: Zhang, J., Liu, H., Wang, Y., Mao, X., Chen, Q., Fan, Y., … Kuang, Y. (2019). Letrozole use during frozen embryo transfer cycles in women with polycystic ovary syndrome. Fertility and Sterility. doi:10.1016/j.fertnstert.2019.04.014
Letrozole là một chất ức chế men aromatase thế hệ thứ ba không làm giảm chức năng của thụ thể estrogen và duy trì hoạt động của cơ chế phản hồi lên vùng hạ đồi tuyến yên để kích thích sự phát triển của đoàn hệ noãn, tăng số nang noãn vượt trội và phóng noãn, không gây ra tác dụng phụ trên nội mạc tử cung. Việc sử dụng Letrozole gần đây đã thu hút sự chú ý của các chuyên gia như một phương pháp thay thế hiệu quả cho liệu pháp thay thế hormone (HRT – hormone replacement therapy) hay còn được gọi là chu trình nhân tạo (artificial cycle) trong FET. Tuy nhiên vẫn chưa có nhiều nghiên cứu chứng minh được liệu tỉ lệ sinh sống (LBR - live birth rate) ở những phụ nữ PCOS sau chuyển phôi đông lạnh có chu kỳ được kích thích bằng Letrozole (L-FET letrozole-stimulated cycle) so với chu kỳ nhân tạo (AC-FET) có sự khác biệt hay không. Để làm rõ vấn đề này, tác giả Zhang và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu trên tổng số 2.664 phụ nữ bị PCOS đến khám tại các trung tâm y tế tuyến cuối tại Trung Quốc. Đối tượng nghiên cứu được chia thành hai nhóm: một nhóm sử dụng Letrozole và một nhóm sử dụng liệu pháp thay thế hormone khi chuyển phôi đông lạnh.
Kết quả cho thấy, LBR trong mỗi lần chuyển phôi là tương tự giữa 2 nhóm (54,4% ở nhóm L-FET và 50,7% ở nhóm AC-FET). Tỉ lệ sẩy thai thấp hơn đáng kể ở nhóm L-FET khi so sánh với nhóm AC-FET (9,1% so với 17%). Tuy vậy, sau khi hiệu chỉnh yếu tố gây nhiễu, LBR tăng đáng kể ở nhóm L-FET khi so sánh với nhóm AC-FET (odds ratio hiệu chỉnh [aOR] 1,33, KTC 95% 1,09 – 1,61) và tỷ lệ sẩy thai ở nhóm L-FET vẫn thấp hơn so với nhóm AC-FET (odds ratio hiệu chỉnh [aOR] 0,51, 95% KTC 95% 0,35 – 0,74).
Từ nghiên cứu trên, tác giả Zhang và các cộng sự đưa ra kết luận, ở những phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang được chuyển phôi trữ lạnh, sử dụng Letrozole để chuẩn bị nội mạc tử cung sẽ giúp tăng tỉ lệ thai sống hơn so với chu trình nhân tạo. Để khẳng định kết quả này, cần có thêm nhiều nghiên cứu lâm sàng trong tương lai.
Nguồn: Zhang, J., Liu, H., Wang, Y., Mao, X., Chen, Q., Fan, Y., … Kuang, Y. (2019). Letrozole use during frozen embryo transfer cycles in women with polycystic ovary syndrome. Fertility and Sterility. doi:10.1016/j.fertnstert.2019.04.014
Các tin khác cùng chuyên mục:
Yếu tố tiên lượng cho kết quả bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 29-05-2019
Tư vấn hiếm muộn và y đức: làm gì khi cơ hội mong manh - Ngày đăng: 29-05-2019
Sinh non và nguy cơ bệnh thận mạn - Ngày đăng: 23-05-2019
Mối tương quan giữa phân mảnh DNA tinh trùng và động học hình thái phôi ở bệnh nhân trẻ tuổi - Ngày đăng: 23-05-2019
PGT-A và kết quả điều trị trên nhóm bệnh nhân tiên lượng kém - Ngày đăng: 23-05-2019
Kết cục trên mẹ và trẻ sơ sinh khi khởi phát chuyển dạ chủ động ở thai kỳ đủ tháng - Ngày đăng: 23-05-2019
Kết cục lâm sàng của các bệnh nhân khi chuyển đơn phôi giai đoạn phân chia ngày 3 chất lượng kém - Ngày đăng: 23-05-2019
Đột biến gen mã hóa protein phức hợp chất nền phần vỏ có thể là nguyên nhân gây ngừng phát triển phôi - Ngày đăng: 23-05-2019
Sử dụng Progesterone trong những trường hợp ra huyết sớm không làm cải thiện kết cục thai kỳ, cập nhật kết quả từ nghiên cứu Prism đăng trên nejm tháng 5/2019 - Ngày đăng: 17-05-2019
Giá trị HDS tinh trùng đo bằng kỹ thuật SCSA có liên quan đến tỉ lệ sẩy thai sớm trong chu kỳ ICSI - Ngày đăng: 17-05-2019
Đánh giá bộ máy giải phóng Canxi ở những noãn thất bại thụ tinh sau ICSI và ICSI-AOA - Ngày đăng: 16-05-2019
Mối liên quan giữa stress và tỉ lệ thành công của phụ nữ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 16-05-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK