Tin tức
on Monday 03-06-2019 3:16pm
Danh mục: Tin quốc tế
Chuyên viên phôi học Trần Hà Lan Thanh – IVFMD Phú Nhuận
Nghiên cứu hồi cứu đoàn hệ các chu kỳ IVF từ 2000-2014, nhằm đánh giá tầm ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung đối với tỉ lệ trẻ sinh sống của những phụ nữ vô sinh điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Đồng thời, cũng nghiên cứu kết cục phụ như: số trứng trưởng thành lúc chọc hút, tỉ lệ thụ tinh, tạo thành phôi nang, tỉ lệ làm tổ, thai diễn tiến, sẩy thai. Đối tượng được nhận vào nghiên cứu gồm nhóm phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung (n=531) và nhóm 2 - phụ nữ bị vô sinh chưa rõ nguyên nhân (n=737) với 1 chu kỳ chuyển phôi duy nhất.
Kết quả:
- Tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm lạc nội mạc tử cung là 24% thấp hơn khi so với nhóm CRNN [OR 0,76 (95% CI, 0,59-0,98) p=0,035]. Còn khi phân tích đa biến, thì tỉ lệ trẻ sinh sống vẫn có xu hướng thấp hơn như lại không khác biệt [OR 0,76 (95% CI 0,56-1,03) p=0,078]
- Phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung có tỉ lệ sinh sống 1 trẻ tương tự như nhóm phụ nữ vô sinh chưa rõ nguyên nhân khi chuyển hai phôi [OR 0,72 (95% CI 0,38 – 1,36), P = 0,32] nhưng thấp hơn nếu chỉ chuyển 1 phôi [OR 0,31 (95% CI 0,16 – 0,58), P = 0,0003]
- Khi so sánh với nhóm chưa rõ nguyên nhân thì nhóm lạc nội mạc tử cung có số trứng trưởng thành lúc chọc hút thấp hơn, tỉ lệ tạo phôi nang [OR 0,24 (95% CI 0,12-0,5) p=0,0001] và làm tổ cũng thấp hơn đáng kể [OR 0,73 (95% CI 0,58-0,92) p=0,007].
Hạn chế của nghiên cứu là thiết kế hồi cứu. Cũng như bằng cách giới hạn nghiên cứu trong một chu kỳ chuyển phôi duy nhất, nên không thể đánh giá kết quả cộng dồn của việc sử dụng tất cả các phôi đông lạnh.
Nghiên cứu đã chứng tỏ lạc nội mạc tử cung làm giảm tỉ lệ trẻ sinh sống trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Ngoài ra, lạc nội mạc tử cung cũng ảnh hưởng đến chất lượng noãn và tiềm năng phát triển của phôi cũng như làm giảm khả năng làm tổ. Cần có nghiên cứu trong tương lai để cải thiện kết quả điều trị TTTON của phụ nữ lạc nội mạc tử cung.Nguồn: The effect of endometriosis on live birth rate and other reproductive outcomes in ART cycles: a cohort study, Human Reproduction Open, 2018 https://doi.org/10.1093/hropen/hoy016
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tỉ lệ bất thường NST cao hơn trong các trường hợp sẩy thai ở phụ nữ PCOS điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 03-06-2019
Bức xạ wifi và điện thoại di động và ảnh hưởng đến hệ thống sinh sản nam và nữ - Ngày đăng: 30-05-2019
Đặc điểm của Sarcoma tử cung trên siêu âm - Ngày đăng: 30-05-2019
Điều trị tăng đường huyết sớm trong thai kỳ: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 29-05-2019
Mối tương quan giữa luyện tập thể dục và chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 29-05-2019
Sử dụng Letrozole trong chu kỳ chuyển phôi trữ ở phụ nữ hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 29-05-2019
Yếu tố tiên lượng cho kết quả bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 29-05-2019
Tư vấn hiếm muộn và y đức: làm gì khi cơ hội mong manh - Ngày đăng: 29-05-2019
Sinh non và nguy cơ bệnh thận mạn - Ngày đăng: 23-05-2019
Mối tương quan giữa phân mảnh DNA tinh trùng và động học hình thái phôi ở bệnh nhân trẻ tuổi - Ngày đăng: 23-05-2019
PGT-A và kết quả điều trị trên nhóm bệnh nhân tiên lượng kém - Ngày đăng: 23-05-2019
Kết cục trên mẹ và trẻ sơ sinh khi khởi phát chuyển dạ chủ động ở thai kỳ đủ tháng - Ngày đăng: 23-05-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK