Tin tức
on Thursday 09-05-2019 1:18pm
Danh mục: Tin quốc tế
Sự thành công trong điều trị IVF phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chất lượng phôi, nội mạc tử cung và mối quan hệ giữa phôi chuyển và nội mạc là những yếu tố quan trọng nhất. Tuy nhiên, ngay cả khi chuyển phôi chất lượng tốt, không mang bất thường nhiễm sắc thể vào một bệnh nhân có nội mạc tử cung tốt vẫn có khả năng phôi không làm tổ.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy, nuôi cấy in vitro cùng với việc trữ rã phôi làm cho màng zona (ZP) của phôi trở nên cứng hơn và tỉ lệ làm tổ thấp có tương quan với hiện tượng cứng ZP, cản trở quá trình thoát màng của phôi trong môi trường in vivo. Vì vậy, việc thoát màng thành công góp phần tăng tỉ lệ làm tổ của phôi.
Hỗ trợ thoát màng (AH) là một kỹ thuật vi thao tác với mục đích giúp phôi thoát khỏi ZP. AH được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1989 với mục đích cải thiện tiềm năng làm tổ của phôi bởi Cohen và cộng sự. Kể từ đó, nhiều kỹ thuật AH đã được phát triển và sử dụng rộng rãi như AH bằng cơ học, hóa học hay gần đây nhất là sử dụng laser để AH. Trong kỹ thuật AH bằng laser, màng ZP thường được làm thủng hoặc làm mỏng. Đối với việc sử dụng laser làm thủng ZP, những thay đổi có thể ảnh hưởng đến phôi thường là làm vỡ màng bên trong từ đó làm thay đổi đột ngột môi trường sinh hóa trong phôi; nguy cơ nhiễm khuẩn hoặc xâm lấn miễn dịch, mất phôi bào hoặc phân tách phôi bào. Phương pháp sử dụng laser làm mỏng ZP dường như không có những rủi ro như trên, được xem tương tự như sự thoát màng sinh lý của phôi và không tác động xấu đến sự phát triển bình thường của phôi. Vì vậy phương pháp này được ưa chuộng sử dụng hơn tại nhiều trung tâm IVF.
Đã có nhiều nghiên cứu về mối tương quan giữa kỹ thuật AH với kết quả điều trị IVF, tuy nhiên kết quả mà các nghiên cứu này đưa ra vẫn chưa rõ ràng và thống nhất vì vậy Xinmei Lu và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá hiệu quả của AH làm mỏng ZP bằng laser lên kết quả điều trị IVF của nhóm bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần trong chu kỳ chuyển phôi trữ ngày 3.
Nghiên cứu thực hiện trên 415 chu kỳ chuyển phôi trữ ngày 3 từ 5/2014 đến 5/2016 trên nhóm bệnh nhân < 36 tuổi, thất bại sau hơn 1 lần chuyển phôi, có nội mạc tử cung ≥ 8 mm vào ngày chuyển phôi. Nghiên cứu thực hiện trên 2 nhóm đối tượng: Nhóm 1: chuyển phôi trữ có AH bằng laser; Nhóm 2: chuyển phôi trữ không AH. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ làm tổ ở nhóm 1 cao hơn nhóm 2 đáng kể, tương ứng là 49,3% và 31,2% ở nhóm 1; 38,9% và 24,6% ở nhóm 2.
- Tỉ lệ sinh sống và tỉ lệ đa thai ở nhóm 1 cũng cao hơn nhóm 2, tương ứng là 44,8% và 32,4% so với 35,8% và 31%.
- Tỉ lệ sinh non và tỉ lệ sẩy thai ở nhóm 1 cao hơn nhóm 2 nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Hiện nay, do sự khác biệt về đặc điểm của bệnh nhân, tiêu chí lựa chọn và kỹ thuật AH nên AH không được xem là qui trình thường quy cho tất cả các bệnh nhân tại một số trung tâm IVF. Nghiên cứu này thực hiện trên nhóm bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần trong IVF cho thấy AH giúp tăng tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ làm tổ cũng như tỉ lệ sinh sống của bệnh nhân nhưng đồng thời cũng làm tăng tỉ lệ đa thai. Kết quả nghiên cứu này cho thấy AH có thể góp phần cải thiện kết quả điều trị trong chu kỳ chuyển phôi trữ của bệnh nhân. Tuy nhiên, việc có đưa AH vào quy trình thường quy hay không sẽ phụ thuộc vào chính sách của từng trung tâm IVF.
Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận.
Nguồn: Laser-assisted hatching and clinical outcomes in frozen-thawed cleavage-embryo transfers of patients with previous repeated failure. Lasers in Medical Science. 10.1007/s10103-018-02702-3
Những nghiên cứu gần đây cho thấy, nuôi cấy in vitro cùng với việc trữ rã phôi làm cho màng zona (ZP) của phôi trở nên cứng hơn và tỉ lệ làm tổ thấp có tương quan với hiện tượng cứng ZP, cản trở quá trình thoát màng của phôi trong môi trường in vivo. Vì vậy, việc thoát màng thành công góp phần tăng tỉ lệ làm tổ của phôi.
Hỗ trợ thoát màng (AH) là một kỹ thuật vi thao tác với mục đích giúp phôi thoát khỏi ZP. AH được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1989 với mục đích cải thiện tiềm năng làm tổ của phôi bởi Cohen và cộng sự. Kể từ đó, nhiều kỹ thuật AH đã được phát triển và sử dụng rộng rãi như AH bằng cơ học, hóa học hay gần đây nhất là sử dụng laser để AH. Trong kỹ thuật AH bằng laser, màng ZP thường được làm thủng hoặc làm mỏng. Đối với việc sử dụng laser làm thủng ZP, những thay đổi có thể ảnh hưởng đến phôi thường là làm vỡ màng bên trong từ đó làm thay đổi đột ngột môi trường sinh hóa trong phôi; nguy cơ nhiễm khuẩn hoặc xâm lấn miễn dịch, mất phôi bào hoặc phân tách phôi bào. Phương pháp sử dụng laser làm mỏng ZP dường như không có những rủi ro như trên, được xem tương tự như sự thoát màng sinh lý của phôi và không tác động xấu đến sự phát triển bình thường của phôi. Vì vậy phương pháp này được ưa chuộng sử dụng hơn tại nhiều trung tâm IVF.
Đã có nhiều nghiên cứu về mối tương quan giữa kỹ thuật AH với kết quả điều trị IVF, tuy nhiên kết quả mà các nghiên cứu này đưa ra vẫn chưa rõ ràng và thống nhất vì vậy Xinmei Lu và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá hiệu quả của AH làm mỏng ZP bằng laser lên kết quả điều trị IVF của nhóm bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần trong chu kỳ chuyển phôi trữ ngày 3.
Nghiên cứu thực hiện trên 415 chu kỳ chuyển phôi trữ ngày 3 từ 5/2014 đến 5/2016 trên nhóm bệnh nhân < 36 tuổi, thất bại sau hơn 1 lần chuyển phôi, có nội mạc tử cung ≥ 8 mm vào ngày chuyển phôi. Nghiên cứu thực hiện trên 2 nhóm đối tượng: Nhóm 1: chuyển phôi trữ có AH bằng laser; Nhóm 2: chuyển phôi trữ không AH. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ làm tổ ở nhóm 1 cao hơn nhóm 2 đáng kể, tương ứng là 49,3% và 31,2% ở nhóm 1; 38,9% và 24,6% ở nhóm 2.
- Tỉ lệ sinh sống và tỉ lệ đa thai ở nhóm 1 cũng cao hơn nhóm 2, tương ứng là 44,8% và 32,4% so với 35,8% và 31%.
- Tỉ lệ sinh non và tỉ lệ sẩy thai ở nhóm 1 cao hơn nhóm 2 nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Hiện nay, do sự khác biệt về đặc điểm của bệnh nhân, tiêu chí lựa chọn và kỹ thuật AH nên AH không được xem là qui trình thường quy cho tất cả các bệnh nhân tại một số trung tâm IVF. Nghiên cứu này thực hiện trên nhóm bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần trong IVF cho thấy AH giúp tăng tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ làm tổ cũng như tỉ lệ sinh sống của bệnh nhân nhưng đồng thời cũng làm tăng tỉ lệ đa thai. Kết quả nghiên cứu này cho thấy AH có thể góp phần cải thiện kết quả điều trị trong chu kỳ chuyển phôi trữ của bệnh nhân. Tuy nhiên, việc có đưa AH vào quy trình thường quy hay không sẽ phụ thuộc vào chính sách của từng trung tâm IVF.
Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận.
Nguồn: Laser-assisted hatching and clinical outcomes in frozen-thawed cleavage-embryo transfers of patients with previous repeated failure. Lasers in Medical Science. 10.1007/s10103-018-02702-3
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chế độ ăn và khả năng sinh sản ở nam giới trẻ tuổi - Ngày đăng: 09-05-2019
Kiểu hình phổ Raman môi trường nuôi cấy phôi giúp xác định phôi nguyên bội và lệch bội - Ngày đăng: 02-07-2019
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp theo dõi kết cục của thai bám sẹo mổ lấy thai - Ngày đăng: 09-05-2019
Kẹp dây rốn muộn có ảnh hưởng gì đến các kết cục sơ sinh ở trẻ non tháng từ các thai kỳ đa thai? - Ngày đăng: 08-05-2019
Đột biến gen ZP1, ZP2 và ZP3 là nguyên nhân gây vô sinh nữ vì hình thành màng trong suốt của noãn bất thường - Ngày đăng: 03-05-2019
Tổng quan hệ thống về: Phương pháp sinh và nguy cơ sinh non ở những thai kỳ tiếp theo - Ngày đăng: 03-05-2019
Phụ nữ có tiền căn dọa sinh non ở thai kỳ lần trước sẽ tăng nguy cơ sinh non cho thai kỳ lần sau - Ngày đăng: 29-04-2019
Nguy cơ sinh non ở phụ nữ đái tháo đường type 1 - Ngày đăng: 29-04-2019
Ảnh hưởng của các điều kiện nhiệt độ nuôi cấy khác nhau trên phôi người trong thụ tinh trong ống nghiệm: hai nghiên cứu chia noãn - Ngày đăng: 29-04-2019
Dấu hiệu trên siêu âm gợi ý chẩn đoán lạc nội mạc tử cung đại tràng sigma-trực tràng - Ngày đăng: 29-04-2019
Phụ nữ lạc nội mạc tử cung có nguy cơ bị kết cục bất lợi khi mang thai không? - Ngày đăng: 26-08-2019
Chiều dài kênh cổ tử cung đo ở 16 – 20 tuần và khả năng tiên lượng sinh non trên song thai - Ngày đăng: 24-04-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK