Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 27-03-2018 9:30am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

ThS. BS. Lê Phạm Thu Hà
Bộ môn Nhi ĐHYD TP.HCM
 
 


Những bà mẹ cho con họ bú sữa mẹ có thể giảm thấp nguy cơ bệnh lý tim và đột quỵ
 
Không chỉ có trẻ được hưởng lợi từ việc bú sữa mẹ, một nghiên cứu gần đây đã chứng tỏ rằng thực hành này có thể làm giảm nguy cơ bệnh lý tim và đột quỵ ở bà mẹ. Hơn thế nữa, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng nguy cơ bệnh lý tim và đột quỵ của mẹ giảm nhiều hơn nữa với mỗi 6 tháng thêm vào của việc cho con bú mẹ. Đồng tác giả của nghiên cứu TS. Sanne Peters, của Đại học Oxford tại Vương quốc Anh, cùng các đồng nghiệp vừa mới công bố các phát hiện của họ trên tạp chí Journal of the American Heart Association.

Bệnh lý tim là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho đàn ông và phụ nữ tại Hoa Kỳ. Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) báo cáo rằng khoảng 610.000 người chết do bệnh lý tim mỗi năm, tương ứng với 1 trong mỗi 4 trường hợp tử vong. Đột quỵ là một trong những nguyên nhân hàng đầu của tàn tật. Mỗi năm, hơn 795.000 người ở Hoa Kỳ có ít nhất 1 cơn đột quỵ. Trong số đó, khoảng 610.000 người là đột quỵ lần đầu tiên. Các nghiên cứu trước đây đều đã chỉ ra rằng những phụ nữ cho con bú mẹ có thể trải qua những đợt giảm ngắn hạn huyết áp, cholesterol, và giảm cân; điều này có thể có lợi cho sức khoẻ tim mạch. Tuy nhiên, TS. Peters cùng các đồng nghiệp lưu ý rằng những hiệu quả trong thời gian dài hơn của việc cho con bú mẹ trên sức khoẻ tim mạch của một bà mẹ vẫn còn chưa rõ.

Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ này, các nhà nghiên cứu phân tích dữ liệu từ 289.573 phụ nữ Trung Quốc đã tham gia vào nghiên cứu China Kadoorie Biobank. Tất cả những phụ nữ này đều không có bệnh lý tim mạch vào thời điểm bắt đầu nghiên cứu, và gần như tất cả họ đều có con. Khi tham gia nghiên cứu, những phụ nữ này được yêu cầu cung cấp thông tin về tiền sử sinh sản của họ, bao gồm việc họ có cho con bú sữa mẹ hay không và khoảng thời gian của việc cho con bú mẹ. Các nhà nghiên cứu cũng đồng thời quan sát tần suất mới mắc của bệnh lý tim và đột quỵ ở những phụ nữ này trong 8 năm của quá trình theo dõi.

Nhóm nghiên cứu tìm thấy rằng, nhìn chung, những phụ nữ cho con bú mẹ có nguy cơ  bệnh lý tim < 9% và nguy cơ đột quỵ < 8% khi so với những phụ nữ chưa từng bao giờ cho con bú mẹ. Khi quan sát những kết quả bằng khoảng thời gian cho con bú mẹ, nghiên cứu ghi nhận rằng những phụ nữ đã cho con họ bú mẹ trong 2 năm hoặc dài hơn có nguy cơ tiến triển tới bệnh lý tim thấp hơn 18% và nguy cơ có một cơn đột quỵ thấp hơn 17%, so với những bà mẹ không cho con bú mẹ. Với mỗi 6 tháng bú mẹ, các nguy cơ của bệnh lý tim và đột quỵ giảm xuống tương ứng là 4% và 3%. Sau khi hiệu chỉnh một loạt các yếu tố nguy cơ bệnh lý tim mạch, bao gồm hút thuốc lá, đái tháo đường, và tăng huyết áp, các kết quả vẫn cho thấy điều tương tự.

Các nhà nghiên cứu chưa thể xác định những cơ chế chính xác bên dưới các phát hiện của họ, nhưng họ phỏng đoán rằng nguy cơ thấp hơn của bệnh lý tim và đột quỵ ở những bà mẹ cho con bú có thể là do một “điều chỉnh” chuyển hoá sau thai kỳ. “Thai kỳ làm thay đổi chuyển hoá của một người phụ nữ một cách rõ rệt khi sản phụ tích trữ mỡ để cung cấp năng lượng cần thiết cho sự phát triển của con mình và cho việc cho con bú mẹ một khi đứa bé được sinh ra. Việc cho con bú mẹ có thể loại bỏ lượng mỡ dự trữ một cách nhanh hơn và trọn vẹn hơn”, TS. Peters giải thích. Hơn thế nữa, nhóm nghiên cứu lưu ý rằng những bà mẹ cho con bú mẹ có thể có nhiều khả năng hơn tiếp nhận các hành vi sức khoẻ để trợ giúp cho sức khoẻ tim mạch của họ, so với những bà mẹ không cho con bú mẹ. Trong khi nghiên cứu là quan sát và không thể chứng minh cho mối quan hệ nhân quả, các nhà nghiên cứu tin rằng những kết quả của họ cung cấp bằng chứng sâu hơn về các lợi ích của việc cho con bú mẹ, đặc biệt là đối với một khoảng thời gian dài hơn. “Các kết quả đã khuyến khích việc cho con bú mẹ rộng hơn nữa cho lợi ích của bà mẹ cũng như trẻ” – theo tác giả Zhengming Chen, Đại học Oxford.

Nguồn: medicalnewstoday 6/2017.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK