Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 21-03-2018 8:34am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

 
U xơ tử cung (UXTC) là bệnh lý phụ khoa lành tính thường gặp, xuất hiện ở 70% phụ nữ da trắng và 80% phụ nữ da màu trong độ tuổi sinh sản tại Mỹ. 25-50% phụ nữ có UXTC có triệu chứng như ra huyết âm đạo kéo dài, lượng nhiều, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Triệu chứng nghiêm trọng có thể là yếu tố để các bác sỹ lâm sàng cân nhắc phẫu thuật cắt tử cung, làm tăng chi phí y tế và bệnh nhân mất khả năng mang thai.
 
Các phương pháp điều trị UXTC nội khoa hiện được quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn. Trong đó, Ulipristal acetate (UPA) là một tác nhân điều hoà thụ thể progesterone chọn lọc (SPRM) đường uống với liều 5-10mg/ ngày. Các thử nghiệm lâm sàng tại châu Âu cho thấy UPA hiệu quả hơn giả dược và an toàn trong điều trị giảm lượng máu mất và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân UXTC.
 
Mới đây, kết quả nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng phase 3 tiến hành tại 25 trung tâm của Mỹ nhằm đánh giá hiệu quả và tính an toàn của UPA trong điều trị UXTC có triệu chứng vừa được công bố. Đối tượng nghiên cứu được phân nhóm ngẫu nhiên tỷ lệ 1:1:1 vào 3 nhóm: uống UPA 5mg/ ngày, uống UPA 10mg/ ngày và uống giả dược. Phụ nữ trước mãn kinh (FSH £ 20 mUI/ml), trong độ tuổi từ 18 đến 50, có UXTC có triệu chứng được tuyển lựa vào nghiên cứu. Tiêu chuẩn nhận chính là cường kinh hoặc rong kinh trong ³ 4 chu kỳ trong 6 tháng gần nhất, lượng máu mất ³ 80ml, có ³ 1 khối UXTC phát hiện qua siêu âm ngả âm đạo và kích thước tử cung £ thai 20 tuần qua khám lâm sàng. Tiêu chuẩn loại là có tiền sử đốt nội mạc tử cung hoặc phẫu thuật khác trên tử cung trong 2 tháng trước sàng lọc hoặc thuyên tắc động mạch tử cung trong 6 tháng trước sàng lọc. Phụ nữ có dùng biện pháp tránh thai có progestin trước 2 tháng, hoặc điều trị đồng vận GnRH trước 5 tháng hoặc dùng một tác nhân thuộc nhóm SPRM khác để ngừa thai khẩn cấp bất kỳ thời điểm nào trước sàng lọc cũng bị loại khỏi nghiên cứu. Phụ nữ có khả năng có thai được yêu cầu sử dụng biện pháp tránh thai không nội tiết trong suốt nghiên cứu.

Kết cục chính là tỷ lệ bệnh nhân vô kinh (hoặc ra máu dạng spotting) trong 35 ngày điều trị liên tục và thời gian từ lúc bắt đầu điều trị đến vô kinh. Tính chất kinh nguyệt được đối tượng nghiên cứu ghi lại dưới dạng nhật ký 24 giờ. Bảng câu hỏi Chất lượng cuộc sống liên quan sức khoẻ và triệu chứng UXTC (USF QOL) bao gồm 29 nội dung được áp dụng để đánh giá ảnh hưởng của UXTC đến cuộc sống của bệnh nhân trước và sau điều trị. Siêu âm đo độ dày NMTC được thực hiện vào ngày 10-18 chu kỳ. Sinh thiết NMTC được thực hiện vào 3 thời điểm: sàng lọc vào nghiên cứu, giữa ngày 10-18 chy kỳ đầu tiên ngay sau điều trị, khi kết thúc 12 tuần theo dõi sau điều trị hoặc ngay trước khi kết thúc nghiên cứu.

Tổng cộng có 612 đối tượng được sàng lọc, 157 đối tượng được tuyển chọn vào nghiên cứu, 148 hoàn thành đợt điều trị và 133 hoàn thành đợt theo dõi. Tỷ lệ tuân thủ điều trị đạt 89-91% và tuân thủ theo dõi sau điều trị 83-90%.

Kết quả, tỷ lệ phụ nữ đạt vô kinh trong 35 ngày điều trị ở cả 2 nhóm can thiệp liều 5mg và 10mg đều cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm giả dược, lần lượt là 47,2% (KTC 95% 31,6-63,2) và 58,3% (KTC 95% 41,2-74,1) so với 1,8% (KTC 95% 0,0-10,9). Chất lượng cuộc sống được cải thiện trong nhóm can thiệp so với nhóm chứng (p<0,001). Sau 12 tuần điều trị, kích thước khối u giảm 9,6% (p=0,218) trong nhóm uống UPA 5mg, giảm 16,3% trong nhóm 10mg (p=0,86) và tăng trong nhóm giả dược 7,2%. Sau 12 tuần theo dõi, kích thước khối u giảm 2,3% (p=0,605) trong nhóm uống UPA 5mg, giảm 17,4% trong nhóm 10mg (p=0,124) và tăng 5,7% trong nhóm giả dược.

Về độ an toàn, không có trường hợp nào ngưng điều trị do tác dụng phụ (AE) của thuốc. Các trường hợp AE nghiêm trọng, không liên quan đến việc điều trị, gồm 1 ca đau ngực và lo âu thuộc nhóm giả dược, 1 ca phản ứng với nhện cắn trong nhóm 5mg UPA và 1 ca mắc bệnh trĩ và nhiễm cúm trong nhóm 10mg, 1 ca tăng huyết áp trong nhóm 10mg UPA. AE cần điều trị được báo cáo với tỷ lệ 28,6% trong nhóm giả dược, 43,4% trong nhóm 5mg UPA và 54,2% trong nhóm 10mg UPA, bao gồm: cơn bốc hoả mức độ nhẹ-trung bình, tăng creatinin phosphokinase máu và tăng huyết áp. Những trường hợp tăng creatinin phosphokinase ở mức độ nhẹ và không liên quan biến cố tim mạch nào. 5 ca tăng huyết áp được báo cáo là tình trạng tăng nặng của bệnh lý nền mãn tính và 1 ca tăng huyết áp mới phát hiện trong 12 tuần theo dõi. Các tác giả ghi nhận nhóm bệnh nhân tăng huyết áp có béo phì và đã có tăng huyết áp không điều trị tại thời điểm sàng lọc.
 
Không có trường hợp nào ung thư NMTC trong các kết quả sinh thiết; 1 trường hợp tăng sản NMTC điển hình trong nhóm 10mg UPA và tự hồi phục không cần điều trị sau khi kết thúc theo dõi. Tỷ lệ biến đổi NMTC do SPRM tương đồng và sự thay đổi độ dày NMTC cũng không khác biệt giữa 3 nhóm.

Tóm lại, nghiên cứu cho thấy UPA đường uống có hiệu quả trong điều trị UXTC có triệu chứng, vốn là chỉ định phẫu thuật cắt tử cung thường gặp trong thực hành lâm sàng. Phương pháp này mở rộng thêm cơ hội cho bệnh nhân muốn bảo tồn khả năng mang thai hoặc không đủ điều kiện cho phẫu thuật.

BS Hê Thanh Nhã Yến - Bệnh viện Mỹ Đức
 
Nguồn: Simon, James A. MD, Ulipristal acetate for treatment of symptomatic uterine leiomyomas: a randomized controlled trial. Obstetrics & gynecology: March 2018 – Vol 131 – Issue 3 – p 431-439.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK