Tin tức
on Tuesday 06-03-2018 3:29pm
Danh mục: Tin quốc tế
Chuyển đơn phôi chọn lọc (eSET) đang là hướng nghiên cứu thu hút sự quan tâm nhờ hạn chế đa thai ở bệnh nhân thực hiện IVF. Phương pháp chuyển phôi này đòi hỏi kỹ thuật nuôi cấy tối ưu kết hợp với lựa chọn phôi có tiềm năng làm tổ lớn nhất. Một nghiên cứu gần đây cho thấy phôi nguyên bào bình thường chỉ chiếm 44% ở bệnh nhân IVF có tiên lượng tốt, vì vậy, việc lựa chọn phôi nang để chuyển bằng cách quan sát hình dạng phôi thông thường có nhiều hạn chế. Những năm gần đây, chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGS) được xem là công cụ hỗ trợ cho eSET thông qua việc lựa chọn một phôi nang nguyên bào bình thường để chuyển. Tuy nhiên, sinh thiết lớp lá nuôi phôi là kỹ thuật gây xâm lấn, đòi hỏi kỹ thuật cao và gây ảnh hưởng lên phôi nên vẫn chưa được áp dụng rộng rãi.
Sự ra đời của hệ thống time lapse cho phép quan sát chính xác hơn về động học tế bào và các diễn biến trong chu kì tế bào. Một số dấu hiệu động học cho phép dự đoán tiềm năng phát triển và khả năng làm tổ của phôi. Hệ thống này còn giúp quan sát được một số bất thường như phôi đa nhân, phân chia ngược, phân chia trực tiếp… Có nhiều nghiên cứu được thực hiện bằng cách kết hợp hệ thống nuôi cấy time lapse và PGS để lựa chọn phôi giai đoạn phân chia mang nhiễm sắc thể bình thường. Và nghiên cứu này cũng kết hợp hai phương pháp này để xác định liệu bất thường phân chia, đa nhân và các thông số động học phát triển của tế bào có thể dự đoán được sự hình thành phôi nang và tình trạng nhiễm sắc thể của phôi hay không. Từ đó cung cấp thông tin cho việc sử dụng hệ thống time lapse như một kỹ thuật không xâm lấn để lựa chọn phôi có tiềm năng làm tổ cao nhất giúp cho việc lựa chọn một phôi nang để chuyển mà không cần sử dụng PGS.
Nghiên cứu hồi cứu lấy dữ liệu trên 130 bệnh nhân thực hiện PGS từ 4/2012 đến 6/2016 tại trung tâm ở Ohio với 1478 hợp tử được nuôi cấy trong hệ thống EmbryoScope TL.
Trong tổng số 767 phôi thực hiện PGS có 319 phôi (41,6%) bình thường nhiễm sắc thể và tỉ lệ này có tương quan với tuổi bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy bất thường về nhân và phân chia ngược không ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi. Ngược lại, sự phát triển của phôi phân chia trực tiếp, phôi phân chia hỗn loạn bị suy giảm đáng kể, số liệu từ nghiên cứu cho thấy tỉ lệ hình thành phôi nang và mở rộng khoang phôi ở những phôi mang bất thường này thấp hơn đáng kể so với phôi bình thường. Những bất thường đơn lẻ trên phôi không liên quan đến tỉ lệ phôi lệch bội tuy nhiên sự hiện diện của hai hoặc nhiều hơn dạng bất thường này làm giảm tỉ lệ phôi nguyên bào bình thường còn 27,6%.
Dữ liệu từ hình ảnh theo dõi bởi time lapse cho thấy thời gian bắt đầu hình thành phôi nang (100,6 giờ với 98,7 giờ) và mở rộng khoang phôi (113,9 giờ với 110, 3 giờ) ở phôi lệch bội dài hơn phôi bình thường. Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy các thông số động học chu kì tế bào sớm cũng góp phần dự đoán được sự hình thành phôi nang và mở rộng khoang phôi tuy nhiên không dự đoán được phôi có mang bất thường lệch bội hay không. Khi so sánh các thông số động học chu kì tế bào muộn, nhóm nghiên cứu thấy rằng những phôi có thời gian bắt đầu hình thành phôi nang (tSB) < 96,2 giờ có tỉ lệ nguyên bào bình thường cao hơn nhóm phôi có tSB ³ 96,2 giờ (48,1% với 37,6%). Tình trạng nhiễm sắc thể cũng có liên quan mạnh mẽ đến thời gian giãn nở khoang phôi (tEB), tỉ lệ phôi nguyên bào bình thường giảm đáng kể khi tEB >116 giờ so với nhóm phôi có thời gian mở rộng khoang phôi nhanh hơn (30% và 46,8%).
Như vậy, nghiên cứu này cho thấy các thông số động học chu kì tế bào sớm không tương quan với tình trạng nhiễm sác thể của phôi, các thông số động học chu kì tế bào muộn có mối tương quan mật thiết với phôi nguyên bào bình thường và những bất thường trong giai đoạn phôi phân cắt không ảnh hưởng đến sự hình thành phôi nang lệch bội.
Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học
Nguồn: Are cleavage anomalies, multinucleation, or specific cell cycle kinetics observed with time-lapse imaging predictive of embryo developmental capacity or ploidy?- Fertility and Sterility.2017.12.025
Các tin khác cùng chuyên mục:
Liệu pháp hormone thay thế và gù lưng ở phụ nữ mãn kinh - Ngày đăng: 02-03-2018
Thuốc cũ hiệu quả mới: Viagra giúp cải thiện chỉ số ối trong những trường hợp thiểu ối - Ngày đăng: 06-03-2018
Bệnh lý phổi và tử vong sơ sinh ở trẻ sinh cực non và liệu pháp corticoid trước sinh - Ngày đăng: 12-02-2018
Giảm tỉ lệ đa thai ở nhóm bệnh nhân <38 tuổi bằng chuyển đơn phôi chọn lọc (eSET) - Ngày đăng: 10-02-2018
Phôi bất thường hình thái có thể phát triển thành phôi nang nguyên bội bình thường - Ngày đăng: 10-02-2018
Nghiên cứu mới khẳng định: Sử dụng đậu nành không ảnh hưởng đến sức khoẻ sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 08-02-2018
Nhiễm Chlamydia không làm tăng nguy cơ sinh non - Ngày đăng: 06-02-2018
Thiếu i-ốt có liên quan đến khả năng chậm có thai - Ngày đăng: 06-02-2018
Chu vi đầu thai nhi ≥35 cm làm tăng nguy cơ mổ lấy thai - Ngày đăng: 30-01-2018
Đặt vòng tránh thai chứa nội tiết ngay sau sinh có ảnh hưởng đến sữa mẹ? - Ngày đăng: 25-01-2018
Dụng cụ tử cung chứa Levonorgestrel trong điều trị ung thư nội mạc tử cung nguy cơ thấp - Ngày đăng: 25-01-2018
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK