Tin tức
on Thursday 17-08-2017 1:42pm
Danh mục: Tin quốc tế
Một nghiên cứu tại Úc vừa được đăng vào ngày 03 tháng 08 năm 2017 trên tạp chí Pediatrics đã cho thấy trẻ mất/giảm thính lực vĩnh viễn có thể phát triển kỹ năng ngôn ngữ tốt hơn nếu được trợ giúp thính lực hoặc cấy ốc tai nhân tạo sớm trong tuổi nhũ nhi.
Tầm soát thính lực sơ sinh đã được thực hiện thường quy tại Úc và nhiều nước phát triển khác, với mục tiêu phát hiện sớm và điều trị sớm hơn tình trạng mất/giảm thính lực ở trẻ. Thế nhưng trên thực hành lâm sàng, vẫn còn nhiều tranh cãi trong việc trẻ mất/giảm thính lực vĩnh viễn nên được nhận trợ giúp thính lực hay cấy ốc tai sớm ở thời điểm nào.
Nghiên cứu đề cập trên bao gồm 350 trẻ 5 tuổi mất/giảm thính lực vĩnh viễn đã được can thiệp với những biện pháp tương tự nhau tại những thời điểm khác nhau trước 5 tuổi, và nhóm chứng gồm 120 trẻ có thính lực bình thường. Các thông tin về khả năng ngôn ngữ lúc 5 tuổi của các trẻ trên được thu thập và phân tích.
Các trẻ mất/giảm thính lực sẽ được chia nhóm để so sánh theo dạng tổn thương và phương pháp can thiệp – trợ giúp thính lực hoặc cấy ốc tai - ở những thời điểm khác nhau. Ngoài ra, trẻ cũng được xếp tương đồng về mức độ mất/giảm thính lực, cân nặng lúc sinh, IQ, các tàn tật đi kèm, và kiểu giao tiếp.
Kết quả cho thấy trẻ được trợ giúp thính lực lúc 2 tuổi có tiên lượng về khả năng ngôn ngữ kém hơn trẻ được trợ giúp lúc 3 tháng tuổi. Tương tự, trẻ được cấy ốc tai nhân tạo ở độ tuổi 2 tuổi cũng sẽ có tiên lượng về khả năng ngôn ngữ kém hơn những trẻ được cấy lúc 6 tháng.
Ảnh hưởng của can thiệp sớm được thể hiện rõ ở trẻ có mất/giảm thính lực nặng hơn là ở trẻ có mất/giảm thính lực nhẹ.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu lại cho thấy các xét nghiệm tầm soát thính lực ở trẻ sơ sinh dường như không có ảnh hưởng đến tiên lượng về ngôn ngữ. Điều này có lẽ là do tất cả trẻ trải qua xét nghiệm tầm soát lúc sơ sinh đều được nhận biện pháp trợ giúp trong độ tuổi nhũ nhi, và một vài trẻ không được tầm soát lúc sơ sinh vẫn được nhận trợ giúp thính lực hay cấy ốc tai ở độ tuổi nhũ nhi.
Giới hạn của nghiên cứu nằm ở chỗ khoảng ½ trẻ được mời tham gia nghiên cứu cuối cùng đã không tham gia hoặc mất liên lạc tại thời điểm trẻ 5 tuổi. Một số bố mẹ khước từ tham gia, trong khi một số ca khác sau này được phát hiện không phải là mất/giảm thính lực vĩnh viễn hoặc không được can thiệp trước năm tuổi thứ 3.
Theo Teresa Ching, tác giả chính của nghiên cứu, việc tiếp cận với những tín hiệu âm thanh trong lời nói và ngôn ngữ sẽ mở đường cho việc học ngôn ngữ ở trẻ. Thời gian thiếu tiếp xúc với âm thanh càng ngắn, khả năng phát triển ngôn ngữ của những trẻ mất/giảm thính lực càng cao.
Khi trẻ nhận được trợ giúp thính lực hoặc cấy ốc tai, con đường tín hiệu đến não được “mở khóa”, cho phép âm thanh có thể đến được vùng não chi phối khả năng nghe. Nếu trẻ không được nhận giúp đỡ kịp thời, vùng não này sẽ không thể phát triển tối ưu và do đó chu trình nghe - hiểu - hoạt động/nói sẽ trở nên khó khăn và chậm chạp.
(Nguồn: medscape)
Tầm soát thính lực sơ sinh đã được thực hiện thường quy tại Úc và nhiều nước phát triển khác, với mục tiêu phát hiện sớm và điều trị sớm hơn tình trạng mất/giảm thính lực ở trẻ. Thế nhưng trên thực hành lâm sàng, vẫn còn nhiều tranh cãi trong việc trẻ mất/giảm thính lực vĩnh viễn nên được nhận trợ giúp thính lực hay cấy ốc tai sớm ở thời điểm nào.
Nghiên cứu đề cập trên bao gồm 350 trẻ 5 tuổi mất/giảm thính lực vĩnh viễn đã được can thiệp với những biện pháp tương tự nhau tại những thời điểm khác nhau trước 5 tuổi, và nhóm chứng gồm 120 trẻ có thính lực bình thường. Các thông tin về khả năng ngôn ngữ lúc 5 tuổi của các trẻ trên được thu thập và phân tích.
Các trẻ mất/giảm thính lực sẽ được chia nhóm để so sánh theo dạng tổn thương và phương pháp can thiệp – trợ giúp thính lực hoặc cấy ốc tai - ở những thời điểm khác nhau. Ngoài ra, trẻ cũng được xếp tương đồng về mức độ mất/giảm thính lực, cân nặng lúc sinh, IQ, các tàn tật đi kèm, và kiểu giao tiếp.
Kết quả cho thấy trẻ được trợ giúp thính lực lúc 2 tuổi có tiên lượng về khả năng ngôn ngữ kém hơn trẻ được trợ giúp lúc 3 tháng tuổi. Tương tự, trẻ được cấy ốc tai nhân tạo ở độ tuổi 2 tuổi cũng sẽ có tiên lượng về khả năng ngôn ngữ kém hơn những trẻ được cấy lúc 6 tháng.
Ảnh hưởng của can thiệp sớm được thể hiện rõ ở trẻ có mất/giảm thính lực nặng hơn là ở trẻ có mất/giảm thính lực nhẹ.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu lại cho thấy các xét nghiệm tầm soát thính lực ở trẻ sơ sinh dường như không có ảnh hưởng đến tiên lượng về ngôn ngữ. Điều này có lẽ là do tất cả trẻ trải qua xét nghiệm tầm soát lúc sơ sinh đều được nhận biện pháp trợ giúp trong độ tuổi nhũ nhi, và một vài trẻ không được tầm soát lúc sơ sinh vẫn được nhận trợ giúp thính lực hay cấy ốc tai ở độ tuổi nhũ nhi.
Giới hạn của nghiên cứu nằm ở chỗ khoảng ½ trẻ được mời tham gia nghiên cứu cuối cùng đã không tham gia hoặc mất liên lạc tại thời điểm trẻ 5 tuổi. Một số bố mẹ khước từ tham gia, trong khi một số ca khác sau này được phát hiện không phải là mất/giảm thính lực vĩnh viễn hoặc không được can thiệp trước năm tuổi thứ 3.
Theo Teresa Ching, tác giả chính của nghiên cứu, việc tiếp cận với những tín hiệu âm thanh trong lời nói và ngôn ngữ sẽ mở đường cho việc học ngôn ngữ ở trẻ. Thời gian thiếu tiếp xúc với âm thanh càng ngắn, khả năng phát triển ngôn ngữ của những trẻ mất/giảm thính lực càng cao.
Khi trẻ nhận được trợ giúp thính lực hoặc cấy ốc tai, con đường tín hiệu đến não được “mở khóa”, cho phép âm thanh có thể đến được vùng não chi phối khả năng nghe. Nếu trẻ không được nhận giúp đỡ kịp thời, vùng não này sẽ không thể phát triển tối ưu và do đó chu trình nghe - hiểu - hoạt động/nói sẽ trở nên khó khăn và chậm chạp.
(Nguồn: medscape)
Các tin khác cùng chuyên mục:
Lợi ích việc điều trị kháng sinh ở trẻ bị viêm tai giữa - Ngày đăng: 17-08-2017
Khuyến cáo mới của Hiệp hội sản phụ khoa hoa kỳ về nhiễm trùng ối - Ngày đăng: 10-08-2017
Tính an toàn khi tiêm vắc xin trong lúc mang thai - Ngày đăng: 10-08-2017
Khoảng cách giữa hai lần mang thai ngắn ≤ 6 tháng làm tăng nguy cơ ối vỡ non - Ngày đăng: 10-08-2017
Đánh giá phôi thông qua hệ thống quan sát phôi liên tục giúp cải thiện tỉ lệ trẻ sinh sống và làm giảm nguy cơ sảy thai sớm - Ngày đăng: 21-07-2017
Mối liên quan chỉ số khối cơ thể mẹ (BMI) trong giai đoạn sớm thai kỳ và tỷ lệ bại não ở trẻ - Ngày đăng: 13-07-2017
Một xét nghiệm kháng thể có thể giúp đơn giản hoá việc chẩn đoán Hội chứng buồng trứng đa nang? - Ngày đăng: 28-06-2017
ASPIRIN liều thấp giúp giảm nguy cơ TSG trước 37 tuần ở nhóm thai phụ nguy cơ cao: bằng chứng mới từ nghiên cứu RCT - Ngày đăng: 29-06-2017
PROBIOTIC có thể phòng ngừa biến chứng ở trẻ sinh non - Ngày đăng: 28-06-2017
Góc cổ tử cung – tử cung và mối liên quan với sinh non - Ngày đăng: 23-06-2017
Nhiễm virus viêm gan B ở mẹ trước khi mang thai và nguy cơ sinh non: một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 23-06-2017
5% trẻ sơ sinh có nguy cơ mang dị tật bẩm sinh nếu mẹ mắc Zika lúc mang thai - Ngày đăng: 15-06-2017
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK