Tin tức
on Wednesday 28-06-2017 2:04pm
Danh mục: Tin quốc tế
Một nghiên cứu thăm dò mới đây cho thấy xét nghiệm kháng thể tự thân nhắm trực tiếp vào 1 peptide trên thụ thể của gonadotropin-releasing hormone (GnRH) có thể được sử dụng để chẩn đoán hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS).
Phát hiện này vừa được báo cáo tại hội nghị thường niên của American Association of Clinical Endocrinologists (AACE) Annual Scientific & Clinical Congress tháng 5 năm 2017, bởi nữ Tiến sĩ Myriam Elkosseifi, thuộc Trung tâm Khoa học Sức khoẻ Đại học Oklahoma (Oklahoma University Health Sciences Center).
Hiện nay, chẩn đoán PCOS được dựa trên các tiêu chuẩn Rotterdam, khi có sự hiện diện của 2 trong 3 tiêu chuẩn: rối loạn phóng noãn, dấu hiệu lâm sàng hoặc cận lâm sàng của cường androgen, hình ảnh buồng trứng đa nang trên siêu âm. Thêm vào đó, chẩn đoán chỉ được thiết lập sau khi loại trừ các bệnh lý khác có triệu chứng tương tự. Không có bất kỳ một xét nghiệm duy nhất nào có thể giúp đưa ra chẩn đoán một cách đơn giản hơn.
Phát hiện này vừa được báo cáo tại hội nghị thường niên của American Association of Clinical Endocrinologists (AACE) Annual Scientific & Clinical Congress tháng 5 năm 2017, bởi nữ Tiến sĩ Myriam Elkosseifi, thuộc Trung tâm Khoa học Sức khoẻ Đại học Oklahoma (Oklahoma University Health Sciences Center).
Hiện nay, chẩn đoán PCOS được dựa trên các tiêu chuẩn Rotterdam, khi có sự hiện diện của 2 trong 3 tiêu chuẩn: rối loạn phóng noãn, dấu hiệu lâm sàng hoặc cận lâm sàng của cường androgen, hình ảnh buồng trứng đa nang trên siêu âm. Thêm vào đó, chẩn đoán chỉ được thiết lập sau khi loại trừ các bệnh lý khác có triệu chứng tương tự. Không có bất kỳ một xét nghiệm duy nhất nào có thể giúp đưa ra chẩn đoán một cách đơn giản hơn.
Vì vậy, chẩn đoán và điều trị thường bị trì hoãn cho đến ít nhất 2 năm sau khi người phụ nữ đã đi khám nhiều chuyên gia và thực hiện nhiều loại xét nghiệm khác nhau, khiến chi phí chăm sóc y tế tăng. Ngoài ra, nội tiết liệu pháp và tăng nhạy cảm insulin cũng không phải là các phương pháp điều trị tối ưu.
Ngược lại, một xét nghiệm ELISA giúp phát hiện các kháng thể nhắm đến vòng ngoại bào thứ hai (second extracellular loop) 28-amino acid của thụ thể GnRH "dường như đáp ứng được nhu cầu về một xét nghiệm chi phí thấp, nhạy cảm và đặc hiệu để xác định những bệnh nhân có kháng thể tự thân gây kích hoạt PCOS," tác giả nghiên cứu cho biết.
Trước đây, Tiến sĩ Elkosseifi và các đồng nghiệp ở Oklahoma đã từng chứng minh sự hiện diện của các kháng thể tự thân chống lại vòng ngoại bào thứ hai của các G-proteins khác trong nhiều tình trạng bệnh khác nhau, bao gồm hội chứng nhịp nhanh tư thế, khiến họ đưa ra giả thuyết rằng các kháng thể như vậy chống lại vòng ngoại bào thứ hai của thụ thể GnRH cũng có thể hiện diện trong PCOS và có thể có giá trị chẩn đoán và giải thích bệnh sinh.
Sau khi tổng hợp peptide GnRH đích, họ đã thu thập mẫu từ 32 phụ nữ được ghi nhận bị PCOS từ một trung tâm vô sinh và nội tiết sinh sản, cùng với 38 phụ nữ vô sinh có phóng noãn phù hợp tuổi và BMI. Trong số này, có 7 ca vô sinh do nguyên nhân tai vòi, 12 ca vô sinh nam, và 19 ca không rõ nguyên nhân (đã loại trừ PCOS).
Sử dụng phương pháp ELISA nhắm vào peptide đích, Tiến sĩ Elkosseifi và đồng nghiệp phát hiện thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mật độ quang học ở các mẫu của bệnh nhân PCOS so với các mẫu của những phụ nữ vô sinh có phóng noãn (0.26 vs 0.17, P < .01).
Ngoài ra, các kết quả vẫn có ý nghĩa khi so sánh giữa phụ nữ PCOS với từng phân nhóm khác nhau trong nhóm vô sinh có phóng noãn.
Diện tích dưới đường cong (ROC) là 0.94 (P < .0001) cho thấy đây là "một xét nghiệm khá chính xác”, tác giả cho biết. Nồng độ kháng thể tự thân GnRH > 0.20 có thể cho thấy sự hiện diện của PCOS, với độ nhạy 91% và độ đặc hiệu 87%.
Có khả năng là các kháng thể tự thân hoạt hoá này đã làm rối loạn các tín hiệu của vùng hạ đồi và tuyến yên, dẫn đến các tín hiệu bất thường trên tuyến sinh dục ở các cá thể mắc bệnh.
Bước tiếp theo, nhóm Oklahoma lên kế hoạch kiểm định lại các phát hiện này trên một đoàn hệ lớn hơn với hơn 800 bệnh nhân PCOS lấy từ hệ thống dữ liệu quốc gia. Họ cũng sẽ thực hiện các nghiên cứu chuyển các kháng thể tự thân từ phụ nữ bị PCOS sang chuột để đánh giá tác động lên chu kỳ nội tiết và nồng độ LH.
Trong lúc chờ kiểm định lại kết quả với một nhóm bệnh nhân PCOS lớn hơn, nhóm của bà cũng lên kế hoạch xét nghiệm một peptide "mồi" có thể khoá hoạt động của kháng thể và thậm chí là chữa khỏi bệnh này. Bổ sung cetrorelix antagonist đặc hiệu với GnRH giúp làm giảm nồng độ IgG kích hoạt bởi thụ thể GnRH xuống tới nồng độ được quan sát thấy ở nhóm chứng. Không có sự khác biệt về hoạt động của IgG trong nhóm chứng trước và sau khi bổ sung cetrorelix. Điều này cho thấy cả tính đặc hiệu và tác động hoạt hoá của kháng thể.
Tiến sĩ Elkosseifi cho biết: Sự hiện diện và hoạt tính thay đổi của các kháng thể tự thân này ở nam và nữ cũng đưa đến một khả năng là chúng hoạt động trong nhiều bệnh lý khác, bao gồm cường androgen, hội chứng chuyển hoá, suy hạ đồi do suy trung ương, sớm phát triển hệ thống lông và dậy thì sớm, ung thư buồng trứng, nội mạc tử cung, vú và tuyến tiền liệt.
Gregory Dodell, MD, Phó giáo sư Y học, nội tiết học, đái tháo đường và bệnh xương, thuộc Trường Y Icahn tại Mount Sinai, New York, gọi đây là một phát hiện “chấn động”. Việc chứng minh được căn nguyên tự miễn của PCOS sẽ vô cùng hấp dẫn và có thể là một hành trình mới bắt nguồn từ hiểu biết của cộng đồng y học về bệnh lý này, chuyển đổi hoàn toàn mô hình chẩn đoán và điều trị đối với PCOS. Tuy nhiên, Tiến sĩ Dodell cũng bày tỏ quan điểm còn “bảo thủ” về tiềm năng điều trị khỏi PCOS, bởi lẽ “các bệnh lý tự miễn thường rất khó điều trị”, và PCOS có lẽ cũng không có gì khác biệt.
Nhóm nghiên cứu đề nghị các nghiên cứu trong tương lai cần đánh giá các nhóm kiểu hình PCOS khác nhau và mối liên hệ giữa nồng độ các tự kháng thể này, nồng độ LH và mức độ nặng của triệu chứng.
BS Nguyễn Khánh Linh
Nguồn: Could an Antibody Test Serve for Simple Diagnosis of PCOS? - Medscape - May 07, 2017.
Từ khóa: Một xét nghiệm kháng thể có thể giúp đơn giản hoá việc chẩn đoán Hội chứng buồng trứng đa nang?
Các tin khác cùng chuyên mục:
ASPIRIN liều thấp giúp giảm nguy cơ TSG trước 37 tuần ở nhóm thai phụ nguy cơ cao: bằng chứng mới từ nghiên cứu RCT - Ngày đăng: 29-06-2017
PROBIOTIC có thể phòng ngừa biến chứng ở trẻ sinh non - Ngày đăng: 28-06-2017
Góc cổ tử cung – tử cung và mối liên quan với sinh non - Ngày đăng: 23-06-2017
Nhiễm virus viêm gan B ở mẹ trước khi mang thai và nguy cơ sinh non: một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 23-06-2017
5% trẻ sơ sinh có nguy cơ mang dị tật bẩm sinh nếu mẹ mắc Zika lúc mang thai - Ngày đăng: 15-06-2017
Chế độ ăn của bà mẹ có thể ảnh hưởng tới sức khoẻ gan của con - Ngày đăng: 15-06-2017
Nồng độ acid folic cao trong thai kỳ có thể làm giảm tăng huyết áp ở trẻ - Ngày đăng: 15-06-2017
Những trẻ sơ sinh rất non tháng hưởng lợi nhiều nhất từ corticosteroids trước sinh - Ngày đăng: 15-06-2017
Phơi nhiễm với nicotine trước và sau sinh gây ra những khó khăn về thính giác ở trẻ - Ngày đăng: 15-06-2017
Cung cấp đủ vitamin D trong thai kỳ giúp ngừa suyễn cho trẻ - Ngày đăng: 15-06-2017
Chụp fcMRI não giúp tiên đoán những trẻ nhũ nhi sẽ mắc tự kỷ trong số những trẻ có nguy cơ cao - Ngày đăng: 15-06-2017
Herpes sinh dục trong thai kỳ có thể làm tăng nguy cơ tự kỷ cho thế hệ sau - Ngày đăng: 17-05-2017
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK