Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 15-06-2017 8:35am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

ThS. BS. Lê Phạm Thu Hà
Bộ môn Nhi ĐHYD TP.HCM

Việc hút thuốc lá có liên hệ với một loạt các nguy cơ về sức khoẻ và những biến chứng lúc sinh. Nghiên cứu mới gợi ý rằng phơi nhiễm với nicotine, trước và sau sinh, có thể gây ra những vấn đề về thính giác cho trẻ em.
 
Nghiên cứu gợi ý rằng việc hút thuốc trước và sau thai kỳ có thể gây ra những vấn đề về thính giác cho trẻ.
 
Việc sử dụng thuốc lá và nicotine đã cho thấy ảnh hưởng tới sự phát triển khoẻ mạnh của thai nhi, cũng như gây ra sinh non hoặc ngay cả tử vong trẻ sơ sinh. Các khiếm khuyết lúc sinh, hội chứng đột tử trẻ sơ sinh, và cân nặng lúc sinh thấp, tất cả đều có liên quan với thuốc lá, thuốc lá điện tử (e-cigarette), và điều trị thay thế nicotine. Bất chấp những tác động gây hại đã được biết rõ của việc hút thuốc lá, Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) báo cáo rằng 10% phụ nữ vẫn còn hút thuốc trong vòng 3 tháng cuối cùng của thai kỳ.

Thuốc lá điện tử được nhận thấy là an toàn hơn, do chúng không chứa sợi thuốc lá và chứa ít các hoá chất độc hại hơn những loại thuốc lá thông thường. Tuy nhiên, CDC cảnh báo rằng thuốc lá điện tử cũng đồng thời có hại cho trẻ, do chúng vẫn còn chứa nicotine – có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của não bộ và phổi của một trẻ sơ sinh.
 
Một nghiên cứu mới đây – đứng đầu bởi Ursula Koch, Giáo sư (GS) tại Freie Universität Berlin ở Đức – đã điều tra những ảnh hưởng sâu hơn mà nicotine có thể có trên thai nhi đang phát triển cũng như trên trẻ sơ sinh. Nghiên cứu quan sát sự phát triển của cuống não thính giác ở chuột. Các phát hiện được công bố trên tạp chí The Journal of Physiology. GS. Koch và nhóm nghiên cứu bổ sung nicotine vào nước uống của chuột bầu ở một nồng độ tương đương với nồng độ của việc hút thuốc nặng ở con người. Sau khi các con chuột bầu sinh con, những con chuột con tiếp tục bị phơi nhiễm với nicotine thông qua sữa của chuột mẹ cho tới khi chúng đạt tới 3 tuần tuổi – xấp xỉ tương đương với độ tuổi của những trẻ học sinh tiểu học. Các nhà nghiên cứu phân tích hoạt động não của những con chuột con – cụ thể là, cường độ tín hiệu giữa các tế bào thần kinh. Nhóm nghiên cứu cũng đồng thời so sánh những kết quả này với một nhóm chuột chứng có độ tuổi tương đương không bị phơi nhiễm với nicotine.
 
GS. Koch và các đồng nghiệp tìm thấy rằng ở nhóm chuột phơi nhiễm với nicotine, những tế bào thần kinh bình thường nhận tín hiệu cảm giác đưa vào từ ốc tai (cơ quan cảm giác thính giác) đã không chuyển những tín hiệu này tới các tế bào thần kinh khác trong cuống não thính giác một cách chính xác và hiệu quả bằng với các tế bào thần kinh ở nhóm chuột chứng.

Thông thường, dây thần kinh thính giác chuyển một tín hiệu điện tới não, sau đó mã hoá thành âm thanh. Tuy nhiên, trong trường hợp của những con chuột phơi nhiễm với nicotine, tín hiệu thần kinh ít chính xác hơn, làm tổn hại tới sự mã hoá của các kiểu âm thanh. Điều này có khả năng gây ra các khó khăn trong quá trình xử lý âm thanh điển hình ở những trẻ có mẹ hút thuốc lá nặng trong thai kỳ.
 
Tác giả chính của nghiên cứu bình luận về những phát hiện này: “Chúng tôi không biết có bao nhiêu phần khác của hệ thính giác bị ảnh hưởng bởi việc phơi nhiễm nicotine. Cần nhiều nghiên cứu hơn nữa về tác động tích luỹ của việc phơi nhiễm nicotine và những cơ chế phân tử của cách mà nicotine ảnh hưởng tới sự phát triển của các tế bào thần kinh trong cuống não thính giác. Nếu các bà mẹ hút thuốc lá trong thai kỳ và con của họ biểu lộ những khó khăn khi học tập ở trường, những đứa trẻ này nên được kiểm tra cho các khiếm khuyết quá trình xử lý âm thanh”.
 
Theo hiểu biết của các tác giả, đây là lần đầu tiên một nghiên cứu đã chỉ ra cuống não thính giác – phần não chịu trách nhiệm phân tích các kiểu âm thanh – phát triển một cách bất thường ở thế hệ sau đã từng bị phơi nhiễm với nicotine trong giai đoạn chu sinh. Sự suy giảm thính giác ở trẻ em do một cuống não thính giác rối loạn chức năng có khuynh hướng gây ra các vấn đề về ngôn ngữ và học tập. Do đó, điều này có thể dẫn tới những kỹ năng giao tiếp biểu lộ kém, thành tích học tập kém, và tách biệt xã hội.

(Nguồn: medicalnewstoday 2/2017)
 
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK