Ung thư vú là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ, với tần suất là 1 trong 8 người phụ nữ. Nhiều yếu tố liên quan sinh sản như hành kinh sớm, mãn kinh muộn, không sinh con, sử dụng hormone, có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú.
Vô sinh ảnh hường khoảng 15% cặp vợ chồng. Phụ nữ vô sinh thường dễ có kinh nguyệt bất thường, không có thai hoặc khả năng có thai thấp, và thường được điều trị thành công khi đã lớn tuổi. Điều trị vô sinh thường sử dụng hormone, điều này có thể ảnh hưởng trực tiếp lên tuyến vú, hoặc ảnh hưởng gián tiếp qua việc làm tăng nồng độ estradiol trong máu. Không có gì ngạc nhiên khi tính an toàn của điều trị vô sinh trở thành chủ đề của nhiều nghiên cứu, đặc biệt là khả năng tăng nguy cơ ung thư sau này.
Vô sinh ngày càng trở nên phổ biến, và nhờ các kĩ thuật sinh sản phát triển rộng khắp, số cặp vợ chồng điều trị bằng thụ tinh trong ống nghiệm và các phương pháp khác cũng gia tăng. Do đó, việc tiếp tục thu thập những thông tin về tính an toàn của kĩ thuật hỗ trợ sinh sản rất quan trọng.
Stewart và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu trong đó gồm cả phụ nữ chưa từng có con và đã có con từ 20-44 tuổi đã được đánh giá vô sinh từ 1983-2002. Các bệnh nhân vô sinh, các phương pháp điều trị mà họ nhận được, và số trường hợp ung thư được xác định từ dữ liệu đăng ký. Trong số 21.015 phụ nữ vô sinh, 7381 đã được điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Nhu cầu điều trị thụ tinh trong ống nghiệm, tuổi sinh con đầu tiên, sinh một con so với nhiều con, và tình trạng kinh tế xã hội cũng được phân tích.
Nguy cơ ung thư vú tăng không có ý nghĩa ở phụ nữ vô sinh được điều trị IVF (OR 1,22; CI 95%, 0,99- 1,49). Sau khi kiểm soát yếu tố tuổi sinh con lần đầu và sinh nhiều con, nguy cơ này thậm chí còn thấp hơn (OR 1,1; CI 95%, 0,88 - 1,36). Tuổi sinh con lần đầu lớn liên quan với tăng nguy cơ, trái lại sinh nhiều con làm giảm nguy cơ. Tình trạng kinh tế xã hội không liên quan đến nguy cơ ung thư vú. Khi phân tích các nhóm tuổi khác nhau, nguy cơ ung thư vú cao hơn ở nhóm bắt đầu điều trị trước 24 tuổi (OR 1,56; CI 95%, 1,01-2,04).
Bệnh nhân thường hỏi về những tác dụng bất lợi liên quan đến điều trị vô sinh. Họ chủ yếu quan tâm đến những nguy cơ tiềm tàng gây ung thư. Ung thư vú là ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ, vì vậy thậm chí nguy cơ tăng ở mức tối thiểu cũng tác động đến nhiều phụ nữ.
Rõ ràng rằng không sinh con và sinh con đầu lòng muộn liên quan đến nhiều trường hợp ung thư vú. Sử dụng hormone được xác định là yếu tố nguy cơ thêm vào. Do đó, phụ nữ vô sinh được điều trị có mức nguy cơ cao hơn dân số chung. Câu hỏi đặt ra là liệu việc sử dụng hormone trong điều trị IVF có làm tăng nguy cơ về sau không.
Đa số nhưng không phải tất cả các nghiên cứu đều không tìm ra sự gia tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ điều trị IVF. Những nghiên cứu này thường có cỡ mẫu thấp, nên kết quả bị hạn chế. Phải mất một khoảng thời gian dài để ung thư vú phát triển, vì thế quá trình theo dõi cũng ảnh hưởng đến kết quả. Nhiều nghiên cứu có thiết kế bệnh chứng hoặc đoàn hệ không kiểm soát được tất cả yếu tố nguy cơ. Các nghiên cứu hiếm khi ghi nhận tiền sử gia đình hoặc yếu tố nguy cơ di truyền, khó kiểm soát về béo phì, chế độ ăn, lối sống. Hơn nữa, phụ nữ điều trị IVF có thể có nhiều chu kì điều trị với những loại thuốc khác nhau.
Để thiết lập mối quan hệ nhân quả, cần có một giải thích hợp lý về mặt sinh học liên quan giữa điều trị vô sinh và ung thư vú. Hormone được biết có vai trò trong bệnh sinh gây ung thư vú, tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu tiếp xúc thời gian ngắn (10 ngày) có thể ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của ung thư qua nhiều thập kỷ hay không.
Nhìn chung, thông tin hiện có về liên quan giữa điều trị vô sinh và ung thư vú là an toàn. Cần có những nghiên cứu sâu hơn với số lượng bệnh nhân nhiều hơn, thời gian theo dõi nhiều hơn vì IVF tăng đáng kể từ những năm 1990. Những phụ nữ này đã hoặc sẽ bước vào mãn kinh trong tương lai gần, khoảng thời gian này tỉ lệ mắc bệnh ung thư vú cao nhất.
Khi bệnh nhân được tư vấn, họ cần được thông báo về các kết quả chung về điều trị vô sinh và ung thư vú hiện an toàn với những nghiên cứu có liên quan với ung thư vú. Tự khám vú và các test tầm soát ung thư vú rất quan trọng đối với những phụ nữ này cũng như với tất cả mọi phụ nữ.
Nguồn: Fertil Steril. 2012;98:334-340
BS Bùi Thị Phương Loan
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...