Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 12-05-2012 2:39pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

lacnoimactucung Mặc dù các khuyến cáo về thụ tinh trong ống nghiệm của Hiệp Hội Sinh sản và Phôi học người Châu Âu được đưa ra dựa trên niềm tin rằng lạc nội mạc tử cung làm giảm tỉ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm, gần đây một nghiên cứu đã công bố không tìm thấy sự khác biệt về tỉ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (IVF) hoặc phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) giữa những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung với những phụ nữ vô sinh do nguyên nhân ống dẫn trứng.

Ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung lên vô sinh thì chưa được hiểu rõ. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung mức độ nhẹ đến vừa, việc lấy đi những mô lạc nội mạc tử cung ở phúc mạc dẫn đến sự cải thiện khả năng sinh sản tự nhiên và các kết quả hỗ trợ sinh sản cũng tốt hơn.

Các khuyến cáo thụ tinh trong ống nghiệm của Hiệp Hội Sinh sản và Phôi học người Châu Âu (ESHRE) được dựa trên kết quả của một phân tích gộp 22 nghiên cứu công bố trong năm 2002. Báo cáo này đã nhận thấy rằng so với các phụ nữ bị vô sinh do nguyên nhân ống dẫn trứng thì những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung mức độ trung bình có tỉ lệ mang thai sau thụ tinh trong ống nghiệm thấp hơn 20%, và những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung lan rộng thì tỉ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm giảm hơn 50%. Gần đây, nhiều nghiên cứu mới có công bố kết quả đã đặt nghi vấn về kết luận này, gợi ý rằng có sự khác biệt nhỏ hoặc không có sự khác biệt về tỉ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm giữa những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung với những phụ nữ có chỉ định thụ tinh trong ống nghiệm khác.

Các nhà nghiên cứu tại Na Uy đã thực hiện một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu lớn để đánh giá sự thành công của IVF và ICSI ở những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung so với các phụ nữ vô sinh do nguyên nhân ống dẫn trứng.

Có 1074 phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung tham gia nghiên cứu được chia làm 2 nhóm dựa trên giai đoạn của lạc nội mạc tử cung theo Hiệp Hội Y Học Sinh Sản Hoa Kỳ (ASRM): ASRM I-II (lạc nội mạc tử cung tối thiểu / nhẹ: n = 724) và ASRM III-IV (lạc nội mạc tử cung mức độ trung bình đến nặng n = 350). Tất cả đối tượng nghiên cứu đều được sử dụng phác đồ Down-regulation từ giai đoạn hoàng thể. Tổng cộng có 1171 phụ nữ vô sinh do nguyên nhân ống dẫn trứng được chọn làm nhóm chứng.

Sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu, kết quả cho thấy tỉ lệ sinh sống/thai diễn tiến trong chu kỳ IVF đầu tiên thì không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa ASRM I-II, ASRM III-IV, và nhóm phụ nữ vô sinh do nguyên nhân ống dẫn trứng (theo thứ tự là 71,6%; 73,9%; và 72,9%). Tỉ lệ thụ tinh trong nhóm ASRM I-II thấp hơn có ý nghĩa so với ASRM III-IV và nhóm phụ nữ vô sinh do nguyên nhân ống dẫn trứng (theo thứ tự là 59,6%; 62,9%; và 63,5% với p<0,01). Tuy nhiên, phụ nữ trong nhóm ASRM III-IV thì cần tổng liều FSH cao hơn có ý nghĩa so với phụ nữ trong 2 nhóm còn lại. Các yếu tố khác như tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ sẩy thai thì giống nhau giữa các nhóm.

Khi những phụ nữ trong nhóm ASRM III-IV được chia nhỏ hơn thành nhóm có u lạc nội mạc tử cung và nhóm không có u lạc nội mạc tử cung thì nhận thấy rằng tỉ lệ sinh sống/thai diễn tiến trong chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên thì thấp hơn có ý nghĩa giữa nhóm có u lạc nội mạc tử cung và nhóm không có u lạc nội mạc tử cung (18,8% so với 30,5%; p<0,05).

Các nhà nghiên cứu kết luận rằng trong nghiên cứu của họ không có sự khác biệt trong tỉ lệ thành công của IVF/ICSI giữa những phụ nữ có lạc nội mạc tử cung với những phụ nữ vô sinh do nguyên nhân ống dẫn trứng. Theo những điều họ đã trình bày, kết quả của họ thì “tương phản với các khuyến cáo của Hiệp Hội Sinh sản và Phôi học người Châu Âu, nhưng tương tự với các nghiên cứu mới”. Ngoại trừ một điều đáng chú ý là trong những phụ nữ phân nhóm bị u lạc nội mạc tử cung thì có tỉ lệ thành công giảm có ý nghĩa.

Nguồn: Opøien HK, et al. Fertil Steril. 2012;doi:10.1016/j.fertnstert.2012.01.112.

Hà Quang Chiến

Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK