Một nghiên cứu tại Mỹ nhận thấy rằng có sự không phù hợp giữa những phụ nữ đáng lẽ ra phải nhận được điều trị loãng xương với những phụ nữ thật sự nhận được điều trị đó, và họ cũng phát hiện ra một vài nguyên nhân để giải thích cho sự khác biệt này. Tại Mỹ, có khoảng 10 triệu người bị loãng xương và hơn 34 triệu người có giảm mật độ xương, đó là nguy cơ cao tiến triển đến loãng xương.
Những người bị giảm mật độ xương đã được biết sẽ tăng nguy cơ gãy xương, đó cũng là nguyên nhân của đau mạn tính, giảm khả năng vận động, suy nhược, giảm chất lượng cuộc sống. Điều đó cũng đưa đến những tổn thất về kinh tế khi làm tăng thêm số bệnh nhân nhập viện và hao phí nguồn lực y tế.
Việc nhận ra những bệnh nhân có nguy cơ cao của gãy xương nhằm mục đích đưa ra những điều trị có hiệu quả trong việc phòng ngừa gãy xương và tránh được những điều trị không cần thiết ở những bệnh nhân có nguy cơ gãy xương thấp.
Một phân tích hồi cứu gần đây được thực hiện tại Mỹ nhằm đánh giá hiệu quả điều trị ở những bệnh nhân có nguy cơ gãy xương cao.
Dữ liệu được lấy từ cuộc khảo sát tình hình sức khỏe tại Mỹ năm 2007 trên 3276 phụ nữ (≥40 tuổi) với chẩn đoán loãng xương (69%) hoặc giảm mật độ xương (31%). Các nhà nghiên cứu tập trung vào vấn đề chính là những bệnh nhân được chẩn đoán loãng xương hoặc giảm mật độ xương nào đã nhận được điều trị. Họ cũng hướng đến xác định mối liên quan giữa những yếu tố nguy cơ lâm sàng đã biết của gãy xương do loãng xương với phương pháp điều trị mà bệnh nhân nhận được.
Tại Châu Âu, công thức đánh giá nguy cơ gãy xương FRAX của Tổ Chức Y Tế Thế Giới thường được sử dụng để tiên lượng nguy cơ gãy xương do loãng xương trong 10 năm và đưa ra quyết định điều trị. FRAX được đánh giá dựa vào các yếu tố như mật độ khoáng của xương, BMI thấp, tuổi, giới tính, tiền căn gãy xương, tiền căn gia đình có người gãy xương vùng khớp háng, sử dụng corticoid đường uống, đang hút thuốc lá, uống rượu ≥3 cốc mỗi ngày. Dựa theo đó những người >50 tuổi ở cả 2 giới sẽ nhận được điều trị nếu họ đã từng gãy xương cột sống hoặc gãy xương vùng khớp háng trước đây và/hoặc điểm số T của việc đo mật độ khoáng của xương bằng -2,5 hoặc thấp hơn. Tại Mỹ, công thức FRAX đã được chỉnh sửa để đưa ra quyết định điều trị cho một bệnh nhân.
Nghiên cứu cho thấy 54,9% những phụ nữ được chẩn đoán loãng xương hoặc giảm mật độ xương nhận được điều trị. Họ được phân ra hai nhóm được điều trị và không được điều trị để xác định những yếu tố liên quan đến việc điều trị.
Các yếu tố có liên quan với điều trị bao gồm đang có loãng xương nhiều hơn là có giảm mật độ xương, lớn tuổi hơn, BMI thấp hơn, và có ít nhất 2 lần gãy xương sau 50 tuổi. Trong khi vài yếu tố có thể được dự đoán theo công thức FRAX, còn những yếu tố khác thì chưa được nhận thấy như: thu nhập cao hơn, mức độ bảo hiểm trong toa thuốc, có đi khám thấp khớp hoặc phụ khoa gần đây, có đi khám sức khỏe định kì trong những năm trước. Thật ngạc nhiên khi nhận thấy những yếu tố của công thức FRAX liên quan với nguy cơ cao của gãy xương lại không thấy có mối liên quan với việc điều trị như: sử dụng corticoid, đang hút thuốc lá, uống rượu mỗi ngày, và sự hiện diện của viêm khớp xương.
Các tác giả kết luận rõ ràng có sự không phù hợp giữa những phụ nữ đáng lẽ ra phải nhận được điều trị loãng xương theo như các khuyến cáo với những phụ nữ thật sự đã nhận được điều trị đó. Họ cũng cho rằng các yếu tố kinh tế xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc điều trị của bệnh nhân, do đó cần phải đưa ra những loại thuốc phổ biến, ít tốn kém hơn. Cuối cùng, “điều quan trọng là cần xác định những rào cản dẫn đến việc không được điều trị đúng đắn ở những phụ nữ có hút thuốc và uống rượu nhiều”.
Người dịch: Hà Quang Chiến
Nguồn:
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...