Tin tức
on Wednesday 16-06-2021 11:04pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Duy Khang – IVF Vạn Hạnh
Việc đánh giá hình thái để lựa chọn tinh trùng phù hợp nhất cho thụ tinh ống nghiệm không nhận biết được đặc điểm di truyền và phân tử của mỗi tế bào. Chọn lựa một tinh trùng không đảm bảo về chức năng thụ tinh có thể dẫn đến sự thất bại trong thụ tinh, phát triển phôi, làm tổ hoặc dẫn đến sảy thai. Do đó, việc lựa chọn tinh trùng rất quan trọng trong việc đảm bảo noãn được thụ tinh một cách tối ưu nhất. Trong số các đặc tính sinh lý liên quan đến chức năng của tinh trùng, apoptosis (tế bào chết theo chương trình) là một trong những đặc tính bất lợi cho khả năng thụ tinh của tinh trùng. Sự gia tăng biểu hiện của các dấu ấn apoptosis như Activated Caspase-3, Externalized
Phosphatidylserine hoặc phân mảnh DNA (DNA fragmentation - fDNA) tinh trùng có liên quan đến bất thường hình thái hoặc độ di động tinh trùng, giảm tỷ lệ thụ tinh và tối ưu hóa chất lượng phôi, giảm tiềm năng thụ tinh và kích hoạt phản ứng cực đầu. Do đó, việc phân tách tinh trùng apoptosis là điều cần thiết nhằm đảm bảo lựa chọn tinh trùng có khả năng sinh lý tốt nhất.
Phân loại tế bào bằng phương pháp hoạt hoá từ tính (Magnetic-activated cell sorting - MACS) là kỹ thuật phân tách tế bào, cho phép giữ lại bên trong cột từ tính những tinh trùng apoptosis có biểu hiện Phosphatidylserine bên ngoài màng tế bào. Mẫu sau lọc rửa sẽ có nhiều tinh trùng không apoptosis, sẵn sàng cho sử dụng trong hỗ trợ sinh sản. Mặc dù không được sử dụng phổ biến trong lâm sàng, đây là phương pháp được khuyến nghị khi bệnh nhân có chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng cao, có hơn 2 lần thực hiện ICSI thất bại không rõ nguyên nhân, có hơn 2 lần sảy thai không rõ nguyên nhân không do yếu tố nữ.
MACS kết hợp với phương pháp ly tâm thang nồng độ (density gradient centrifugation - DGC) cho tỷ lệ thu hồi tinh trùng di động cao hơn (68%) khi so sánh với mẫu xuất tinh (39%), cũng như chỉ số phân mảnh DNA thấp hơn (4% trong mẫu MACS - DGC so với 24% trong mẫu đối chiếu) và cải thiện tỷ lệ tinh trùng có hình dạng bình thường. Tuy nhiên, trong một số nghiên cứu khác, sự suy giảm fDNA không đáng kể, sự suy giảm này chỉ có ý nghĩa thống kê khi chỉ số phân mảnh trong mẫu xuất tinh ≥ 30% (7,1% sau khi thực hiện MACS so với 41,4% trong mẫu xuất tinh), không có sự cải thiện đáng kể về hình dạng tinh trùng bình thường, độ di động, dấu ấn PLC-ζ khi so sánh giữa MACS kết hợp với phương pháp Swim up hoặc DGC so với mẫu xuất tinh ban đầu. Bên cạnh tác dụng của MACS trong việc cải thiện các thông số tinh trùng sau lọc, vẫn còn thiếu sự nhất trí liệu lựa chọn tinh trùng bằng MACS có cải thiện kết quả các chu kỳ hỗ trợ sinh sản.
PHƯƠNG PHÁP
Đây là một nghiên cứu hồi cứu quan sát đa trung tâm không lựa chọn nam giới, được thực hiện trên 49.350 chu kỳ thực hiện ICSI noãn tự thân từ 01/2008 đến 02/2020. Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của chọn lọc tinh trùng bằng phương pháp tiêu chuẩn, Swim up hoặc DGC (nhóm đối chiếu, n = 47.235) so với kết hợp giữa phương pháp tiêu chuẩn và MACS (nhóm nghiên cứu, n = 2.115) lên kết quả hỗ trợ sinh sản. Nghiên cứu ghi nhận và so sánh các thông số gồm: tỷ lệ sinh sống cộng dồn (CLBR) trên mỗi lần chuyển phôi và mỗi phôi chuyển, tỷ lệ thai sinh hoá, tỷ lệ trẻ sinh sống và tỷ lệ sẩy thai.
KẾT QUẢ
KẾT LUẬN
Việc sử dụng MACS để phân tách tinh trùng apoptosis trong các chu kỳ thực hiện ICSI giúp giảm số lượng phôi cần chuyển, tuy nhiên sự khác biệt không có nhiều ý nghĩa về mặt lâm sàng. Phương pháp này không cải thiện kết quả của hỗ trợ sinh sản (tỷ lệ mang thai và tỷ lệ trẻ sinh sống) trong các chu kỳ thực hiện ICSI không lựa chọn nam giới so với chuẩn bị tinh trùng bằng phương pháp Swim up hoặc DGC. Nghiên cứu này cung cấp cho bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân thông tin chính xác hơn về ảnh hưởng của MACS đến cơ hội mang thai và cần thêm các nghiên cứu tập trung vào quần thể cụ thể mà kỹ thuật này có thể đặc biệt hữu ích.
Nguồn: María Gil Juliá, Irene Hervás, Fernando Quintana và cộng sự. Sperm Selection by Magnetic-Activated Cell Sorting before Microinjection of Autologous Oocytes Increases Cumulative Live Birth Rates with Limited Clinical Impact: A Retrospective Study in Unselected Males. Biology, 2021, 10.5: 430. https://doi.org/10.3390/biology10050430
Việc đánh giá hình thái để lựa chọn tinh trùng phù hợp nhất cho thụ tinh ống nghiệm không nhận biết được đặc điểm di truyền và phân tử của mỗi tế bào. Chọn lựa một tinh trùng không đảm bảo về chức năng thụ tinh có thể dẫn đến sự thất bại trong thụ tinh, phát triển phôi, làm tổ hoặc dẫn đến sảy thai. Do đó, việc lựa chọn tinh trùng rất quan trọng trong việc đảm bảo noãn được thụ tinh một cách tối ưu nhất. Trong số các đặc tính sinh lý liên quan đến chức năng của tinh trùng, apoptosis (tế bào chết theo chương trình) là một trong những đặc tính bất lợi cho khả năng thụ tinh của tinh trùng. Sự gia tăng biểu hiện của các dấu ấn apoptosis như Activated Caspase-3, Externalized
Phosphatidylserine hoặc phân mảnh DNA (DNA fragmentation - fDNA) tinh trùng có liên quan đến bất thường hình thái hoặc độ di động tinh trùng, giảm tỷ lệ thụ tinh và tối ưu hóa chất lượng phôi, giảm tiềm năng thụ tinh và kích hoạt phản ứng cực đầu. Do đó, việc phân tách tinh trùng apoptosis là điều cần thiết nhằm đảm bảo lựa chọn tinh trùng có khả năng sinh lý tốt nhất.
Phân loại tế bào bằng phương pháp hoạt hoá từ tính (Magnetic-activated cell sorting - MACS) là kỹ thuật phân tách tế bào, cho phép giữ lại bên trong cột từ tính những tinh trùng apoptosis có biểu hiện Phosphatidylserine bên ngoài màng tế bào. Mẫu sau lọc rửa sẽ có nhiều tinh trùng không apoptosis, sẵn sàng cho sử dụng trong hỗ trợ sinh sản. Mặc dù không được sử dụng phổ biến trong lâm sàng, đây là phương pháp được khuyến nghị khi bệnh nhân có chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng cao, có hơn 2 lần thực hiện ICSI thất bại không rõ nguyên nhân, có hơn 2 lần sảy thai không rõ nguyên nhân không do yếu tố nữ.
MACS kết hợp với phương pháp ly tâm thang nồng độ (density gradient centrifugation - DGC) cho tỷ lệ thu hồi tinh trùng di động cao hơn (68%) khi so sánh với mẫu xuất tinh (39%), cũng như chỉ số phân mảnh DNA thấp hơn (4% trong mẫu MACS - DGC so với 24% trong mẫu đối chiếu) và cải thiện tỷ lệ tinh trùng có hình dạng bình thường. Tuy nhiên, trong một số nghiên cứu khác, sự suy giảm fDNA không đáng kể, sự suy giảm này chỉ có ý nghĩa thống kê khi chỉ số phân mảnh trong mẫu xuất tinh ≥ 30% (7,1% sau khi thực hiện MACS so với 41,4% trong mẫu xuất tinh), không có sự cải thiện đáng kể về hình dạng tinh trùng bình thường, độ di động, dấu ấn PLC-ζ khi so sánh giữa MACS kết hợp với phương pháp Swim up hoặc DGC so với mẫu xuất tinh ban đầu. Bên cạnh tác dụng của MACS trong việc cải thiện các thông số tinh trùng sau lọc, vẫn còn thiếu sự nhất trí liệu lựa chọn tinh trùng bằng MACS có cải thiện kết quả các chu kỳ hỗ trợ sinh sản.
PHƯƠNG PHÁP
Đây là một nghiên cứu hồi cứu quan sát đa trung tâm không lựa chọn nam giới, được thực hiện trên 49.350 chu kỳ thực hiện ICSI noãn tự thân từ 01/2008 đến 02/2020. Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của chọn lọc tinh trùng bằng phương pháp tiêu chuẩn, Swim up hoặc DGC (nhóm đối chiếu, n = 47.235) so với kết hợp giữa phương pháp tiêu chuẩn và MACS (nhóm nghiên cứu, n = 2.115) lên kết quả hỗ trợ sinh sản. Nghiên cứu ghi nhận và so sánh các thông số gồm: tỷ lệ sinh sống cộng dồn (CLBR) trên mỗi lần chuyển phôi và mỗi phôi chuyển, tỷ lệ thai sinh hoá, tỷ lệ trẻ sinh sống và tỷ lệ sẩy thai.
KẾT QUẢ
- Về tỷ lệ sinh sống cộng dồn: CLBR/số lần chuyển phôi trong nhóm MACS là 43,0% cho 1 lần chuyển, 63,6% cho 2 lần, 80,6% cho 3 lần và 88,3% cho 4 lần. Trong khi ở nhóm đối chiếu, CLBR tương ứng lần lượt là 40,0%, 59,6%, 72,3%, và 81,6%. CLBR/số phôi chuyển trong nhóm MACS là 21,5% cho một phôi, 55,5% cho hai phôi, 65,4% cho ba phôi và 83,3% cho bốn phôi, trong khi nhóm đối chiếu, CLBR tương ứng là 15,0%, 49,1%, 58,0% và 73,3%. Sự khác biệt của cả 2 nhóm có ý nghĩa thống kê (P<0.001).
- Về tỷ lệ mang thai, nhóm MACS có tỷ lệ mang thai sinh hóa là 46,9%, tỷ lệ mang thai lâm sàng là 39,7% và tỷ lệ thai kỳ diễn tiến là 32,4%. Trong khi nhóm đối chiếu lần lượt là 45,4%, 38,5%, và 31,8%. Khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
- Về tỷ lệ trẻ sinh sống, nhóm MACS cho tỷ lệ 29,3% trên mỗi phôi chuyển và 38,8% trên mỗi chu kỳ. Nhóm đối chiếu có tỷ lệ trẻ sinh sống là 29,2% mỗi phôi chuyển và 37,4% trên mỗi chu kỳ. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
- Về tỷ lệ sảy thai, nhóm MACS cho tỷ lệ là 8,2% trên mỗi phôi chuyển, trong khi nhóm đối chiếu là 7,5%. Sự khác biệt giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê.
KẾT LUẬN
Việc sử dụng MACS để phân tách tinh trùng apoptosis trong các chu kỳ thực hiện ICSI giúp giảm số lượng phôi cần chuyển, tuy nhiên sự khác biệt không có nhiều ý nghĩa về mặt lâm sàng. Phương pháp này không cải thiện kết quả của hỗ trợ sinh sản (tỷ lệ mang thai và tỷ lệ trẻ sinh sống) trong các chu kỳ thực hiện ICSI không lựa chọn nam giới so với chuẩn bị tinh trùng bằng phương pháp Swim up hoặc DGC. Nghiên cứu này cung cấp cho bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân thông tin chính xác hơn về ảnh hưởng của MACS đến cơ hội mang thai và cần thêm các nghiên cứu tập trung vào quần thể cụ thể mà kỹ thuật này có thể đặc biệt hữu ích.
Nguồn: María Gil Juliá, Irene Hervás, Fernando Quintana và cộng sự. Sperm Selection by Magnetic-Activated Cell Sorting before Microinjection of Autologous Oocytes Increases Cumulative Live Birth Rates with Limited Clinical Impact: A Retrospective Study in Unselected Males. Biology, 2021, 10.5: 430. https://doi.org/10.3390/biology10050430
Các tin khác cùng chuyên mục:
Béo phì loại 3 và loại 4 có tác động như thế nào đến kết quả điều trị IVF? - Ngày đăng: 17-06-2021
Tác động của các đại thực bào trong tinh dịch lên chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 17-06-2021
Động học thụ tinh và phân chia nhanh ở phôi có tương quan với kết quả trẻ sinh sống sau ICSI, và có liên quan đến tuổi mẹ - Ngày đăng: 15-06-2021
Hình ảnh time-lapse của các sợi dây tế bào chất trong phôi nang có liên quan đến sự tự co sụp của phôi - Ngày đăng: 15-06-2021
Phân tích động học hình thái phôi cho thấy việc thụ tinh với tinh trùng từ tinh hoàn có ảnh hưởng đến chu kỳ phân bào đầu tiên của phôi - Ngày đăng: 14-06-2021
Tiêm ngừa COVID-19 và Hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 14-06-2021
Khả năng sinh sản sau thuyên tắc động mạch tử cung điều trị u xơ cơ tử cung - Ngày đăng: 10-06-2021
Nguy cơ sẩy thai – thai lưu sau sinh thiết gai nhau ở song thai - Ngày đăng: 10-06-2021
Phân tích động học hình thái của phôi giai đoạn phân chia và đánh giá biểu hiện các gen đặc hiệu trong tế bào cumulus để dự đoán sự phát triển của phôi người thành phôi nang nở rộng: một nghiên cứu sơ bộ - Ngày đăng: 10-06-2021
Hoạt động chuyển hoá của phôi nang liên quan đến động học, loại chất lượng hình thái, KIDScore và phân loại phôi bằng trí tuệ nhân tạo - Ngày đăng: 10-06-2021
So sánh tỉ lệ trẻ sinh sống giữa chuyển phôi khảm và phôi nguyên bội - Ngày đăng: 10-06-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK