Tin tức
on Friday 02-04-2021 8:54am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Nhật Ánh Dương – IVFMD Tân Bình
Ti thể là một bào quan di truyền từ mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp năng lượng cho sự tồn tại và phát triển của tế bào. Ở noãn và phôi giai đoạn sớm, ti thể là bào quan hiện diện nhiều nhất, là yếu tố quyết định đối với tiềm năng phát triển của phôi. Sự suy giảm và rối loạn chức năng của ty thể là một trong những dấu hiệu nổi bật của quá trình lão hóa và xảy ra ở tất cả các loại tế bào trong cơ thể, bao gồm cả noãn. Tế bào noãn rất nhạy cảm với các rối loạn ty thể và bất kỳ những tổn hại hay thay đổi tiêu cực nào của ty thể đều gây ảnh hưởng đến chất lượng noãn, đây được cho là lý do chính dẫn đến hiệu suất sinh sản kém ở phụ nữ lớn tuổi.
Trong thập kỷ qua, liệu pháp thay thế ty thể (Mitochondrial replacement therapy- MRT) đã được phát triển để cải thiện chất lượng tế bào noãn và tiềm năng phát triển của phôi có liên quan đến rối loạn ty thể, bao gồm cả lão hóa. Tuy nhiên, các quy trình chuyển ti thể dị hợp thông thường bị vấp phải những mối quan tâm lớn về vấn đề đạo đức và hạn chế về nguồn tế bào, hợp tử hiến tặng. Do đó, chuyển ty thể tự thân là một giải pháp thay thế đầy hứa hẹn trong việc cải thiện chất lượng noãn và sự phát triển của phôi, đặc biệt là đối với những bệnh nhân bị giảm số lượng ti thể trong tế bào và giảm sản xuất ATP, chẳng hạn như ở phụ nữ lớn tuổi. Thế nhưng theo một số quan sát và nghiên cứu thì hình thái và hoạt động của ty thể trong tế bào soma khác với ty thể ở tế bào noãn và việc chuyển ty thể từ tế bào soma là không đủ trong việc cải thiện chất lượng noãn và tiềm năng phát triển phôi ở những cá thể chuột già. Một phát hiện mới về các tế gốc vạn năng cảm ứng (induced pluripotent stem cells- iPS) có chứa các ti thể hình tròn với các mào (cristae) kém phát triển và hình thái giống như chưa trưởng thành, tương tự như ty thể trong tế bào noãn. Chính vì vậy mà nhóm nghiên cứu (2021) đã đề xuất một chiến lược mới để cải thiện kết quả thụ tinh ống nghiệm ở những bệnh nhân nữ lớn tuổi thông qua chuyển ty thể từ tế bào iPS.
Phương pháp: Nghiên cứu sử dụng mô hình chuột cái non (2 tháng tuổi) và chuột cái ICR già (8 đến 10 tháng tuổi), có biểu hiện giảm khả năng sinh sản đáng kể và khiếm khuyết ty thể. Với các phương pháp thực hiện như thu nhận nguyên bào sợi từ phôi chuột ICR (mouse embryo fibroblast-MEF), tái lập trình MEF để tạo dòng tế bào iPS, phân lập ty thể từ các tế bào iPS, MEF và vi tiêm ty thể vào tế bào noãn đã thụ tinh và chuyển phôi. Sử dụng các phương pháp phân tích miễn dịch huỳnh quang, nhuộm Mitotracker, xác định điện thế màng ty thể, phân tích số bản sao mtDNA và dùng kính hiển vi điện tử để so sánh hình thái và hoạt động của ty thể ở ba loại tế bào là noãn, iPS và MEF.
Một số kết quả thu nhận được:
Kết luận
Nghiên cứu đã chứng minh rằng việc tiêm ty thể có nguồn gốc từ iPS vào tế bào noãn đã thụ tinh có thể trực tiếp cải thiện tiềm năng phát triển của phôi từ những cá thể cái già và do đó giúp nâng cao tỷ lệ mang thai sau quá trình thụ tinh ống nghiệm. Từ kết quả nghiên cứu trên đã đề xuất một chiến lược mới đầy tiềm năng để cải thiện kết quả thụ tinh ống nghiệm ở bệnh nhân nữ lớn tuổi thông qua chuyển ty thể từ tế bào iPS tự thân, điều này cũng tránh những lo ngại về vấn đề đạo đức đối với các chiến lược chuyển ty thể hiện tại.
Nguồn: Chao Zhang, Li Tao, Yuan Yue , Likun Ren, Zhenni Zhang , Xiaodong Wang , Jianhui Tian , Lei An; Mitochondrial transfer from iPS cells rescues developmental potential of in vitro fertilized embryos from aging females; Biology of Reproduction; 2021 January 28.
Ti thể là một bào quan di truyền từ mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp năng lượng cho sự tồn tại và phát triển của tế bào. Ở noãn và phôi giai đoạn sớm, ti thể là bào quan hiện diện nhiều nhất, là yếu tố quyết định đối với tiềm năng phát triển của phôi. Sự suy giảm và rối loạn chức năng của ty thể là một trong những dấu hiệu nổi bật của quá trình lão hóa và xảy ra ở tất cả các loại tế bào trong cơ thể, bao gồm cả noãn. Tế bào noãn rất nhạy cảm với các rối loạn ty thể và bất kỳ những tổn hại hay thay đổi tiêu cực nào của ty thể đều gây ảnh hưởng đến chất lượng noãn, đây được cho là lý do chính dẫn đến hiệu suất sinh sản kém ở phụ nữ lớn tuổi.
Trong thập kỷ qua, liệu pháp thay thế ty thể (Mitochondrial replacement therapy- MRT) đã được phát triển để cải thiện chất lượng tế bào noãn và tiềm năng phát triển của phôi có liên quan đến rối loạn ty thể, bao gồm cả lão hóa. Tuy nhiên, các quy trình chuyển ti thể dị hợp thông thường bị vấp phải những mối quan tâm lớn về vấn đề đạo đức và hạn chế về nguồn tế bào, hợp tử hiến tặng. Do đó, chuyển ty thể tự thân là một giải pháp thay thế đầy hứa hẹn trong việc cải thiện chất lượng noãn và sự phát triển của phôi, đặc biệt là đối với những bệnh nhân bị giảm số lượng ti thể trong tế bào và giảm sản xuất ATP, chẳng hạn như ở phụ nữ lớn tuổi. Thế nhưng theo một số quan sát và nghiên cứu thì hình thái và hoạt động của ty thể trong tế bào soma khác với ty thể ở tế bào noãn và việc chuyển ty thể từ tế bào soma là không đủ trong việc cải thiện chất lượng noãn và tiềm năng phát triển phôi ở những cá thể chuột già. Một phát hiện mới về các tế gốc vạn năng cảm ứng (induced pluripotent stem cells- iPS) có chứa các ti thể hình tròn với các mào (cristae) kém phát triển và hình thái giống như chưa trưởng thành, tương tự như ty thể trong tế bào noãn. Chính vì vậy mà nhóm nghiên cứu (2021) đã đề xuất một chiến lược mới để cải thiện kết quả thụ tinh ống nghiệm ở những bệnh nhân nữ lớn tuổi thông qua chuyển ty thể từ tế bào iPS.
Phương pháp: Nghiên cứu sử dụng mô hình chuột cái non (2 tháng tuổi) và chuột cái ICR già (8 đến 10 tháng tuổi), có biểu hiện giảm khả năng sinh sản đáng kể và khiếm khuyết ty thể. Với các phương pháp thực hiện như thu nhận nguyên bào sợi từ phôi chuột ICR (mouse embryo fibroblast-MEF), tái lập trình MEF để tạo dòng tế bào iPS, phân lập ty thể từ các tế bào iPS, MEF và vi tiêm ty thể vào tế bào noãn đã thụ tinh và chuyển phôi. Sử dụng các phương pháp phân tích miễn dịch huỳnh quang, nhuộm Mitotracker, xác định điện thế màng ty thể, phân tích số bản sao mtDNA và dùng kính hiển vi điện tử để so sánh hình thái và hoạt động của ty thể ở ba loại tế bào là noãn, iPS và MEF.
Một số kết quả thu nhận được:
- Lão hóa gây ra những bất thường về chức năng và hình thái của ti thể ở tế bào noãn của chuột
- Ty thể ở tế bào iPS và tế bào noãn có hình thái và chức năng tương tự nhau
- Liệu pháp chuyển ty thể từ tế bào iPS giúp cải thiện tiềm năng phát triển của phôi IVF ở những cá thể chuột cái già
- Chuyển ty thể từ tế bào iPS giúp cải thiện chức năng hoạt động của ty thể
Kết luận
Nghiên cứu đã chứng minh rằng việc tiêm ty thể có nguồn gốc từ iPS vào tế bào noãn đã thụ tinh có thể trực tiếp cải thiện tiềm năng phát triển của phôi từ những cá thể cái già và do đó giúp nâng cao tỷ lệ mang thai sau quá trình thụ tinh ống nghiệm. Từ kết quả nghiên cứu trên đã đề xuất một chiến lược mới đầy tiềm năng để cải thiện kết quả thụ tinh ống nghiệm ở bệnh nhân nữ lớn tuổi thông qua chuyển ty thể từ tế bào iPS tự thân, điều này cũng tránh những lo ngại về vấn đề đạo đức đối với các chiến lược chuyển ty thể hiện tại.
Nguồn: Chao Zhang, Li Tao, Yuan Yue , Likun Ren, Zhenni Zhang , Xiaodong Wang , Jianhui Tian , Lei An; Mitochondrial transfer from iPS cells rescues developmental potential of in vitro fertilized embryos from aging females; Biology of Reproduction; 2021 January 28.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Những thay đổi về chiều dài telomere và các dấu hiệu lão hóa trong quá trình bảo quản lạnh mô buồng trứng ở người - Ngày đăng: 02-04-2021
Hội chứng nang trống trong hỗ trợ sinh sản và sự liên quan với các nguyên nhân vô sinh khác nhau ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi - Ngày đăng: 02-04-2021
Có nên thực hiện sụp khoang phôi nhân tạo trước khi thủy tinh hóa phôi nang hay không? - Một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 31-03-2021
Đánh giá hiệu quả kỹ thuật chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn sử dụng DNA tế bào tự do trong môi trường nuôi cấy phôi - Ngày đăng: 31-03-2021
ĐA HÌNH GEN PROTAMINE VÀ KẾT QUẢ NHUỘM CMA3 Ở NHỮNG BỆNH NHÂN VÔ SINH DO GIÃN TĨNH MẠCH THỪNG TINH - Ngày đăng: 30-03-2021
CHỈ SỐ KHỐI LƯỢNG CƠ THỂ VÀ CHẤT LƯỢNG TINH TRÙNG: CÓ MỐI LIÊN HỆ HAY KHÔNG? - Ngày đăng: 30-03-2021
NHỮNG LỢI ÍCH LÂM SÀNG CỦA CHẨN ĐOÁN DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ (PGT-A) CHO TẤT CẢ CÁC CHU KỲ THỤ TINH ỐNG NGHIỆM - Ngày đăng: 30-03-2021
Chỉ số phân mảnh DNA (DFI) và HDS không ảnh hưởng đến kết quả thai sau ICSI - Ngày đăng: 30-03-2021
Sàng lọc bất thường nhiễm sắc thể thai nhi - Hướng dẫn lâm sàng của Hội Sản Phụ khoa Hoa Kỳ dành cho bác sĩ sản phụ khoa - Ngày đăng: 25-03-2021
CÀO NỘI MẠC TỬ CUNG Ở PHỤ NỮ THẤT BẠI IVF/ICSI MỘT LẦN – THỬ NGHIỆM NGẪU NHIÊN CÓ NHÓM CHỨNG - Ngày đăng: 21-03-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK