Tin tức
on Tuesday 30-03-2021 8:48am
Danh mục: Tin quốc tế
Ths. Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD PN
Vô sinh chiếm khoảng 8%-12% các cặp đôi trong độ tuổi sinh sản trên toàn thế giới, trong đó, khoảng 40%- 50% trường hợp vô sinh do yếu tố nam giới. Hiện nay, tinh dịch đồ là xét nghiệm đầu tay đánh giá khả năng sinh sản của nam giới. Tuy nhiên các thông số tinh dịch đồ không phản ánh đầy đủ chức năng của tinh trùng ở cấp độ tế bào và phân tử cũng như không thể dự đoán được khả năng thành công của một chu kỳ điều trị IVF.
Gốc oxy hoá tự do- ROS (Reactive oxygen species) là thuật ngữ dùng để mô tả một số phân tử và các gốc tự do có nguồn gốc từ oxy. Sự xuất hiện của ROS trong tinh dịch chiếm khoảng 30%-80% nam giới vô sinh. ROS được sản sinh ở nồng độ sinh lý là yếu tố cần thiết cho một số chức năng bình thường của tinh trùng; tuy nhiên khi nồng độ ROS vượt quá khả năng kháng oxy hoá sẽ dẫn đến tress oxy hoá và gây tổn thương DNA ở nhiều mức độ khác nhau. Chính các tác động này gây bất lợi lên sự thành công của chu kì ICSI. Hiện nay, có nhiều phương pháp được sử dụng để đánh giá sai hỏng trong DNA tinh trùng. Trong đó, SCSA là phương pháp đang được sử dụng phổ biến. SCSA được sử dụng để đánh giá chỉ số phân mảnh DNA (DFI- DNA fragmentation index) và DNA có tính ổn định cao (HDS- high DNA stainability-chỉ số được biểu thị bằng việc phát huỳnh quang xanh lá cây ở mức độ cao hơn do thiếu sự thay thế histone bằng protamine). Một số nghiên cứu cho rằng sự gia tăng DFI ảnh hưởng đến tỉ lệ thai và HDS tăng cao đã được chứng minh liên quan đến tăng nguy cơ sẩy thai. Tuy nhiên, những kết quả này vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Do đó, Ruben Blachman-Braun và cộng sự (2020) đã thực hiện nghiên cứu này nhằm phân tích tác động của DFI và HDS đến sự thành công của chu kì ICSI.
Nghiên cứu hồi cứu thực hiện từ tháng 1/2009 đến tháng 12/2018 trên 550 cặp đôi với 1050 chu kỳ IVF/ICSI. Kết cục chính là xác định liệu rằng %DFI có dự đoán được số chu kỳ ICSI cần thực hiện đến khi mang thai thành công hay không và kết cục phụ là xác định liệu rằng %HDS có dự đoán được số chu kỳ ICSI cần thực hiện đến khi mang thai thành công hay không.
Có 330 cặp đôi tham gia nghiên cứu có thai với độ tuổi trung bình là 33,7 ± 3,6 tuổi và thực hiện số chu kỳ ICSI ít hơn so với nhóm không mang thai. Chỉ số DFI và HDS tương đương giữa hai nhóm có và không có mang thai (p>0,05). Phân tích đa biến và đơn biến cho thấy tuổi vợ ở chu kỳ đầu tiên có tương quan với kết quả thai (OR = 0,827; 95% CI: 0,778 – 0,879; p < 0,001) và những cặp đôi thực hiện nhiều chu kỳ ICSI hơn có khả năng mang thai thấp hơn (OR = 0,597; 95% CI: 0,493 – 0,723; p < 0,001).
Kết quả nghiên cứu cho thấy cả DFI và HDS đều không ảnh hưởng đến kết quả thai lâm sàng ở chu kì ICSI. Như vậy, cả hai thông số đều không thể cung cấp đủ thông tin để dự đoán số chu kì ICSI mà một cặp vợ chồng phải thực hiện đến khi mang thai thành công.
Nguồn: Sperm DNA fragmentation index and high DNA stainability do not influence pregnancy success after intracytoplasmic sperm injection. F & S report. 10.1016/j.xfre.2020.08.005 2020.
Vô sinh chiếm khoảng 8%-12% các cặp đôi trong độ tuổi sinh sản trên toàn thế giới, trong đó, khoảng 40%- 50% trường hợp vô sinh do yếu tố nam giới. Hiện nay, tinh dịch đồ là xét nghiệm đầu tay đánh giá khả năng sinh sản của nam giới. Tuy nhiên các thông số tinh dịch đồ không phản ánh đầy đủ chức năng của tinh trùng ở cấp độ tế bào và phân tử cũng như không thể dự đoán được khả năng thành công của một chu kỳ điều trị IVF.
Gốc oxy hoá tự do- ROS (Reactive oxygen species) là thuật ngữ dùng để mô tả một số phân tử và các gốc tự do có nguồn gốc từ oxy. Sự xuất hiện của ROS trong tinh dịch chiếm khoảng 30%-80% nam giới vô sinh. ROS được sản sinh ở nồng độ sinh lý là yếu tố cần thiết cho một số chức năng bình thường của tinh trùng; tuy nhiên khi nồng độ ROS vượt quá khả năng kháng oxy hoá sẽ dẫn đến tress oxy hoá và gây tổn thương DNA ở nhiều mức độ khác nhau. Chính các tác động này gây bất lợi lên sự thành công của chu kì ICSI. Hiện nay, có nhiều phương pháp được sử dụng để đánh giá sai hỏng trong DNA tinh trùng. Trong đó, SCSA là phương pháp đang được sử dụng phổ biến. SCSA được sử dụng để đánh giá chỉ số phân mảnh DNA (DFI- DNA fragmentation index) và DNA có tính ổn định cao (HDS- high DNA stainability-chỉ số được biểu thị bằng việc phát huỳnh quang xanh lá cây ở mức độ cao hơn do thiếu sự thay thế histone bằng protamine). Một số nghiên cứu cho rằng sự gia tăng DFI ảnh hưởng đến tỉ lệ thai và HDS tăng cao đã được chứng minh liên quan đến tăng nguy cơ sẩy thai. Tuy nhiên, những kết quả này vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Do đó, Ruben Blachman-Braun và cộng sự (2020) đã thực hiện nghiên cứu này nhằm phân tích tác động của DFI và HDS đến sự thành công của chu kì ICSI.
Nghiên cứu hồi cứu thực hiện từ tháng 1/2009 đến tháng 12/2018 trên 550 cặp đôi với 1050 chu kỳ IVF/ICSI. Kết cục chính là xác định liệu rằng %DFI có dự đoán được số chu kỳ ICSI cần thực hiện đến khi mang thai thành công hay không và kết cục phụ là xác định liệu rằng %HDS có dự đoán được số chu kỳ ICSI cần thực hiện đến khi mang thai thành công hay không.
Có 330 cặp đôi tham gia nghiên cứu có thai với độ tuổi trung bình là 33,7 ± 3,6 tuổi và thực hiện số chu kỳ ICSI ít hơn so với nhóm không mang thai. Chỉ số DFI và HDS tương đương giữa hai nhóm có và không có mang thai (p>0,05). Phân tích đa biến và đơn biến cho thấy tuổi vợ ở chu kỳ đầu tiên có tương quan với kết quả thai (OR = 0,827; 95% CI: 0,778 – 0,879; p < 0,001) và những cặp đôi thực hiện nhiều chu kỳ ICSI hơn có khả năng mang thai thấp hơn (OR = 0,597; 95% CI: 0,493 – 0,723; p < 0,001).
Kết quả nghiên cứu cho thấy cả DFI và HDS đều không ảnh hưởng đến kết quả thai lâm sàng ở chu kì ICSI. Như vậy, cả hai thông số đều không thể cung cấp đủ thông tin để dự đoán số chu kì ICSI mà một cặp vợ chồng phải thực hiện đến khi mang thai thành công.
Nguồn: Sperm DNA fragmentation index and high DNA stainability do not influence pregnancy success after intracytoplasmic sperm injection. F & S report. 10.1016/j.xfre.2020.08.005 2020.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sàng lọc bất thường nhiễm sắc thể thai nhi - Hướng dẫn lâm sàng của Hội Sản Phụ khoa Hoa Kỳ dành cho bác sĩ sản phụ khoa - Ngày đăng: 25-03-2021
CÀO NỘI MẠC TỬ CUNG Ở PHỤ NỮ THẤT BẠI IVF/ICSI MỘT LẦN – THỬ NGHIỆM NGẪU NHIÊN CÓ NHÓM CHỨNG - Ngày đăng: 21-03-2021
Nguồn gốc tinh trùng từ xuất tinh hoặc phẫu thuật từ tinh hoàn có ảnh hưởng đến thông số động học hình thái phôi hay không? - Ngày đăng: 21-03-2021
TUYÊN BỐ CHUNG CỦA IFFS/ESHRE VỀ VIỆC TIÊM NGỪA COVID-19 ĐỐI VỚI PHỤ NỮ MANG THAI HOẶC ĐANG CÓ KẾ HOẠCH MANG THAI - Ngày đăng: 19-03-2021
BÁO CÁO LOẠT CA VỀ THAI BÁM SẸO MỔ LẤY THAI TÁI DIỄN - Ngày đăng: 18-03-2021
Thuật toán thông minh phân loại xếp hạng phôi (ERICA): trí tuệ nhân tạo hỗ trợ tiên lượng phôi nguyên bội và khả năng làm tổ - Ngày đăng: 16-03-2021
THỜI ĐIỂM KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ TRONG BỆNH CẢNH VỠ ỐI TRÊN THAI ĐỦ THÁNG - Ngày đăng: 16-03-2021
Quản lý cách sử dụng noãn có bất thường SER - Ngày đăng: 12-03-2021
ẢNH HƯỞNG CỦA SINH THIẾT TẾ BÀO LÁ NUÔI ĐỐI VỚI KẾT CỤC SẢN KHOA VÀ CHU SINH TRONG CHU KỲ CHUYỂN PHÔI ĐÔNG LẠNH - Ngày đăng: 08-03-2021
MỐI LIÊN HỆ GIỮA HỘI CHỨNG BUỒNG TRỨNG ĐA NANG VÀ NGUY CƠ DỊ TẬT TIM BẨM SINH Ở THẾ HỆ CON CÁI - Ngày đăng: 08-03-2021
CHUYỂN PHÔI NANG KHẢM - CƠ HỘI MỚI CHO BỆNH NHÂN - Ngày đăng: 08-03-2021
MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC LIPID MÁU VÀ CHẤT LƯỢNG PHÔI TRONG QUÁ TRÌNH THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM - Ngày đăng: 08-03-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK