Tin tức
on Monday 08-03-2021 2:32pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Thị Kim Ngân - IVFMD Tân Bình
Rối loạn lipid máu được định nghĩa là sự gia tăng các chỉ số cholesterol hoặc triglyceride (TG) trong huyết thanh, hoặc tăng cùng lúc cả hai. Đôi khi, tình trạng rối loạn lipid máu cũng được ghi nhận khi nồng độ của lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) trong máu giảm dưới ngưỡng bình thường (Uemura Y và cs., 2016). Nhiều bằng chứng cho thấy rối loạn lipid máu có thể là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị vô sinh (Broughton DE và cs., 2017; Pugh SJ và cs., 2017). Trong nghiên cứu của Shalaby và cộng sự (2004), các tác giả nhận thấy những con chuột đực với chế độ ăn uống có mức cholesterol cao thì khả năng sinh sản sẽ thấp hơn so với chế độ ăn uống không chứa cholesterol và việc điều trị bằng anticholesterol sẽ cải thiện đáng kể tình trạng này. Một số nghiên cứu về thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) ở người chỉ ra rằng lipid huyết thanh bất thường ở người mẹ có ảnh hưởng đến chất lượng tế bào noãn, chức năng buồng trứng và sự phát triển phôi kém hơn, làm giảm khả năng sinh sản (Miller WL và cs., 2011). Bên cạnh việc xây dựng lại chu kỳ kinh nguyệt đều đặn và phục hồi quá trình phóng noãn, nhiều nghiên cứu đã đưa ra các bằng chứng rằng điều chỉnh các rối loạn lipid máu là hoàn toàn cần thiết trong quá trình điều trị hiếm muộn (Sravan Kumar P và cs., 2014; Gleason JL và cs., 2019). HDL dường như là thành phần chính trong dịch nang, liên quan mật thiết đến quá trình hình thành nang noãn ở người (Nagy Ra và cs., 2019). HDL trong dịch nang đã được chứng minh là có tương quan nghịch so với tỷ lệ phân mảnh của phôi sau 72 giờ nuôi cấy trong ống nghiệm (Browne RW và cs., 2008). Ngoài ra, một số lượng lớn các thí nghiệm trên động vật cho thấy rằng chuyển hóa HDL có tác dụng quan trọng trong quá trình phát triển phôi thai (Fujimoto VY và cs., 2010; Santander NG và cs., 2013). Tuy nhiên, mối liên quan giữa các thông số lipid khác như triglyceride (TG), lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL), lipoprotein (a), lipoprotein (b) và chất lượng phôi hiếm khi được báo cáo. Do đó, nghiên cứu của Shanshan Wang và cộng sự (2020) đã được tiến hành nhằm khảo sát toàn diện mối tương quan giữa nồng độ lipid máu, bao gồm triglyceride (TG), cholesterol toàn phần (TC), lipoprotein tỷ trọng cao (HDL), lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL), lipoprotein (a), lipoprotein (b) và chất lượng phôi.
Nghiên cứu được tiến hành hồi cứu kết quả xét nghiệm từ 8/2016 đến 8/2017. Nghiên cứu đưa vào phân tích tổng cộng 488 bệnh nhân điều trị IVF, được chia thành 2 nhóm: có thai (n = 286) và không có thai (n = 202). Nồng độ TG, TC, HDL, LDL, Lp (a) và Lp (b) được đo lường, đồng thời ghi nhận chất lượng phôi để phân tích tương quan.
Kết quả thu được như sau:
- Nhóm có thai có tỷ lệ phôi chất lượng tốt cao hơn đáng kể so với nhóm không có thai (P < 0,05).
- Nồng độ TG, TC, LDL tương quan nghịch với số lượng tế bào noãn thụ tinh bình thường (P < 0,05).
- Nồng độ TG, TC, Lp (b) tương quan nghịch với số lượng phôi chất lượng tốt (P < 0,05).
- Nồng độ HDL, Lp (a) tương quan thuận với số lượng tế bào noãn, tế bào noãn thụ tinh bình thường và phôi phân chia (P< 0,05).
Nhìn chung, nồng độ TG, TC, LDL và Lp (b) trong huyết thanh có tương quan nghịch với chất lượng phôi. Ngược lại, nồng độ HDL và Lp (a) huyết thanh có tương quan thuận với chất lượng phôi. Những phát hiện từ nghiên cứu này cho thấy nồng độ lipid trong máu có thể cung cấp một số thông tin tham khảo nhất định cho việc dự đoán kết quả thai sau IVF.
Nguồn: Shanshan Wang, Jun Wang, Yiqun Jiang, Weihua Jiang. Association between blood lipid level and embryo quality during in vitro fertilization. Medicine 2020; 99 (13).
Rối loạn lipid máu được định nghĩa là sự gia tăng các chỉ số cholesterol hoặc triglyceride (TG) trong huyết thanh, hoặc tăng cùng lúc cả hai. Đôi khi, tình trạng rối loạn lipid máu cũng được ghi nhận khi nồng độ của lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) trong máu giảm dưới ngưỡng bình thường (Uemura Y và cs., 2016). Nhiều bằng chứng cho thấy rối loạn lipid máu có thể là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị vô sinh (Broughton DE và cs., 2017; Pugh SJ và cs., 2017). Trong nghiên cứu của Shalaby và cộng sự (2004), các tác giả nhận thấy những con chuột đực với chế độ ăn uống có mức cholesterol cao thì khả năng sinh sản sẽ thấp hơn so với chế độ ăn uống không chứa cholesterol và việc điều trị bằng anticholesterol sẽ cải thiện đáng kể tình trạng này. Một số nghiên cứu về thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) ở người chỉ ra rằng lipid huyết thanh bất thường ở người mẹ có ảnh hưởng đến chất lượng tế bào noãn, chức năng buồng trứng và sự phát triển phôi kém hơn, làm giảm khả năng sinh sản (Miller WL và cs., 2011). Bên cạnh việc xây dựng lại chu kỳ kinh nguyệt đều đặn và phục hồi quá trình phóng noãn, nhiều nghiên cứu đã đưa ra các bằng chứng rằng điều chỉnh các rối loạn lipid máu là hoàn toàn cần thiết trong quá trình điều trị hiếm muộn (Sravan Kumar P và cs., 2014; Gleason JL và cs., 2019). HDL dường như là thành phần chính trong dịch nang, liên quan mật thiết đến quá trình hình thành nang noãn ở người (Nagy Ra và cs., 2019). HDL trong dịch nang đã được chứng minh là có tương quan nghịch so với tỷ lệ phân mảnh của phôi sau 72 giờ nuôi cấy trong ống nghiệm (Browne RW và cs., 2008). Ngoài ra, một số lượng lớn các thí nghiệm trên động vật cho thấy rằng chuyển hóa HDL có tác dụng quan trọng trong quá trình phát triển phôi thai (Fujimoto VY và cs., 2010; Santander NG và cs., 2013). Tuy nhiên, mối liên quan giữa các thông số lipid khác như triglyceride (TG), lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL), lipoprotein (a), lipoprotein (b) và chất lượng phôi hiếm khi được báo cáo. Do đó, nghiên cứu của Shanshan Wang và cộng sự (2020) đã được tiến hành nhằm khảo sát toàn diện mối tương quan giữa nồng độ lipid máu, bao gồm triglyceride (TG), cholesterol toàn phần (TC), lipoprotein tỷ trọng cao (HDL), lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL), lipoprotein (a), lipoprotein (b) và chất lượng phôi.
Nghiên cứu được tiến hành hồi cứu kết quả xét nghiệm từ 8/2016 đến 8/2017. Nghiên cứu đưa vào phân tích tổng cộng 488 bệnh nhân điều trị IVF, được chia thành 2 nhóm: có thai (n = 286) và không có thai (n = 202). Nồng độ TG, TC, HDL, LDL, Lp (a) và Lp (b) được đo lường, đồng thời ghi nhận chất lượng phôi để phân tích tương quan.
Kết quả thu được như sau:
- Nhóm có thai có tỷ lệ phôi chất lượng tốt cao hơn đáng kể so với nhóm không có thai (P < 0,05).
- Nồng độ TG, TC, LDL tương quan nghịch với số lượng tế bào noãn thụ tinh bình thường (P < 0,05).
- Nồng độ TG, TC, Lp (b) tương quan nghịch với số lượng phôi chất lượng tốt (P < 0,05).
- Nồng độ HDL, Lp (a) tương quan thuận với số lượng tế bào noãn, tế bào noãn thụ tinh bình thường và phôi phân chia (P< 0,05).
Nhìn chung, nồng độ TG, TC, LDL và Lp (b) trong huyết thanh có tương quan nghịch với chất lượng phôi. Ngược lại, nồng độ HDL và Lp (a) huyết thanh có tương quan thuận với chất lượng phôi. Những phát hiện từ nghiên cứu này cho thấy nồng độ lipid trong máu có thể cung cấp một số thông tin tham khảo nhất định cho việc dự đoán kết quả thai sau IVF.
Nguồn: Shanshan Wang, Jun Wang, Yiqun Jiang, Weihua Jiang. Association between blood lipid level and embryo quality during in vitro fertilization. Medicine 2020; 99 (13).
Từ khóa: MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC LIPID MÁU VÀ CHẤT LƯỢNG PHÔI TRONG QUÁ TRÌNH THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối tương quan giữa kích thước phôi nang và tỷ lệ thai lâm sàng - Ngày đăng: 08-03-2021
SO SÁNH HIỆU QUẢ CÁC LOẠI THUỐC KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG SỬ DỤNG TRÊN BỆNH NHÂN VÔ SINH KHÔNG RÕ NGUYÊN NHÂN THỰC HIỆN IUI - Ngày đăng: 03-03-2021
Có thể tiên lượng tiềm năng phát triển của phôi từ các thông số động học hay không? - Ngày đăng: 26-03-2021
Hoạt hoá noãn nhân tạo và nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh: một phân tích gộp - Ngày đăng: 26-03-2021
ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ HOMOCYSTEINE TRONG DỊCH NANG ĐỐI VỚI CHẤT LƯỢNG PHÔI VÀ SỰ TRƯỞNG THÀNH CỦA NOÃN Ở PHỤ NỮ VÔ SINH - Ngày đăng: 01-03-2021
Hiệu quả của chuyển đơn phôi chọn lọc so với chuyển hai phôi ở bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm tiên lượng tốt - Ngày đăng: 01-03-2021
ẢNH HƯỞNG CỦA CHỈ SỐ KHỐI CƠ THỂ ĐẾN SỰ THÀNH CÔNG CỦA CHU KỲ IUI - Ngày đăng: 27-02-2021
SỰ SUY GIẢM CHẤT LƯỢNG TINH DỊCH Ở PHỤ NỮ CHUYỂN GIỚI - Ngày đăng: 27-02-2021
ICSI CÓ PHẢI LÀ NGUYÊN NHÂN LÀM PHÔI LỆCH BỘI HAY KHÔNG? - Ngày đăng: 27-02-2021
THỜI GIAN ĐÔNG LẠNH PHÔI NANG TỐI ƯU SAU KHI SINH THIẾT LÁ NUÔI PHÔI CHO XÉT NGHIỆM DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ - Ngày đăng: 19-02-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK