Tin tức
on Monday 01-03-2021 8:24am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Hà Lan Thanh_IVFMD Phú Nhuận
Thành công của một chu kỳ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) là có trẻ sinh sống khoẻ mạnh. Tuy nhiên, đa thai lại là một trong những biến chứng thường gặp trong TTTON, chiếm khoảng 31- 41 %, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ đa thai trong thụ thai tự nhiên là 3,4 % (theo số liệu của Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ từ năm 2013-2016). Đa thai mang đến nhiều hệ lụy về sức khoẻ đối với cả mẹ và trẻ như tăng nguy cơ sẩy thai, sinh non, trẻ nhẹ cân,… Nguyên nhân đa thai phần lớn là do chuyển nhiều hơn một phôi. Vì vậy, bên cạnh việc tăng hiệu quả tỷ lệ trẻ sinh sống, cần phải đảm bảo tính an toàn trong một chu kỳ điều trị TTTON bằng cách kiểm soát đa thai thông qua giảm số phôi chuyển.
Những năm gần đây, nhiều trung tâm TTTON trên thế giới đã áp dụng việc chuyển đơn phôi có chọn lọc (eSET- elective single embryo transfer) thay thế cho chuyển hai phôi (DET- double embryo transfer) trên một số nhóm bệnh nhân phù hợp nhằm làm giảm tỷ lệ đa thai. Năm 2017, Hội Y học sinh sản Hoa Kỳ (ASRM) và Hội kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (SART) đưa ra khuyến nghị về giới hạn số phôi chuyển tùy vào giai đoạn phôi và tiên lượng của bệnh nhân trong chu kỳ chuyển phôi trữ (FET- frozen embryo transfer) nhằm giảm tối thiểu đa thai nhưng vẫn đảm bảo tỷ lệ mang thai. Theo hướng dẫn này, eSET nên được áp dụng đối với nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt (là nhóm bệnh nhân trẻ < 38 tuổi, có ít nhất 1 phôi trữ chất lượng tốt, có phôi nguyên bội và đang thực hiện lần điều trị TTTON đầu tiên hoặc có trẻ sinh sống trong lần điều trị TTTON trước đó).
Ngoài ra, eSET được áp dụng chủ yếu đối với phôi nang hơn phôi ở giai đoạn phân chia. Bởi lẽ, hiệu quả thực hiện eSET phôi giai đoạn phân chia cho tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống thấp hơn so với eSET phôi nang. Một số nghiên cứu chuyển phôi nang cho thấy eSET sẽ giảm tỷ lệ đa thai từ 10 đến 20 lần so với thực hiện DET, nhưng tỷ lệ thai và tỷ lệ trẻ sinh sống không khác biệt có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, kết quả cân nặng của trẻ lúc sinh khác biệt đáng kể khi thực hiện eSET so với DET phôi nang tươi ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi (< 35 tuổi). Tuy nhiên, các kết quả sản khoa và sơ sinh của chiến lược chuyển đơn phôi còn quá ít công bố.
Ở Việt Nam, số nghiên cứu về hiệu quả chuyển phôi vẫn còn hạn chế. Chưa có nghiên cứu nào báo cáo về kết quả thai kì chuyển đơn phôi trữ chọc lọc, cũng như đưa ra khuyến cáo về số phôi chuyển cho từng nhóm bệnh nhân cụ thể. Trên các cơ sở đó, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu đánh giá hiệu quả của chiến lược chuyển đơn phôi chọn lọc so với chuyển hai phôi trong chu kỳ chuyển phôi trữ của nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt.
Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đa trung tâm được tiến hành tại các trung tâm TTTON thuộc hệ thống IVFMD trong thời gian từ tháng 1/2018 đến tháng 5/2020. Các bệnh nhân thoả tiêu chuẩn nhận loại được chia thành 4 nhóm: (1) chuyển một phôi ngày 3 chất lượng tốt (eSET D3), (2) chuyển một phôi nang ngày 5 chất lượng tốt (eSET D5), (3) chuyển 2 phôi ngày 3 chất lượng tốt (DET D3), (4) chuyển 2 phôi nang ngày 5 chất lượng tốt (DET D5).
Kết quả thu được là:
Như vậy, ở nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt, chiến lược chuyển đơn phôi chọc lọc giúp hạn chế đáng kể tỷ lệ sinh song thai so với chuyển hai phôi nhưng vẫn đảm bảo tỷ lệ trẻ sinh sống cũng như các kết cục thai kỳ khác và kết cục sơ sinh. Chiến lược eSET D5 cho nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt là lựa chọn phù hợp, đảm bảo cân bằng giữa tỷ lệ trẻ sinh sống và giảm thiểu nguy cơ đa thai. Bên cạnh đó, thực hiện eSET D3 cho tỷ lệ trẻ sinh sống thấp nhất nhưng là chiến lược an toàn nhất với tỷ lệ sinh song thai, sẩy thai và nguy cơ trẻ sơ sinh nhẹ cân là thấp nhất. Kết quả nghiên cứu này có thể cung cấp chứng cứ khoa học hỗ trợ cho quá trình điều trị TTTON một cách an toàn và hiệu quả trên nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt tại hệ thống IVFMD cũng như tại Việt Nam.
Nguồn: Effectiveness of elective single versus double embryo transfer in good-prognosis IVF patients, Biomedical Research and Therapy, 2021, http://www.bmrat.org/index.php/BMRAT/article/view/658
Thành công của một chu kỳ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) là có trẻ sinh sống khoẻ mạnh. Tuy nhiên, đa thai lại là một trong những biến chứng thường gặp trong TTTON, chiếm khoảng 31- 41 %, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ đa thai trong thụ thai tự nhiên là 3,4 % (theo số liệu của Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ từ năm 2013-2016). Đa thai mang đến nhiều hệ lụy về sức khoẻ đối với cả mẹ và trẻ như tăng nguy cơ sẩy thai, sinh non, trẻ nhẹ cân,… Nguyên nhân đa thai phần lớn là do chuyển nhiều hơn một phôi. Vì vậy, bên cạnh việc tăng hiệu quả tỷ lệ trẻ sinh sống, cần phải đảm bảo tính an toàn trong một chu kỳ điều trị TTTON bằng cách kiểm soát đa thai thông qua giảm số phôi chuyển.
Những năm gần đây, nhiều trung tâm TTTON trên thế giới đã áp dụng việc chuyển đơn phôi có chọn lọc (eSET- elective single embryo transfer) thay thế cho chuyển hai phôi (DET- double embryo transfer) trên một số nhóm bệnh nhân phù hợp nhằm làm giảm tỷ lệ đa thai. Năm 2017, Hội Y học sinh sản Hoa Kỳ (ASRM) và Hội kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (SART) đưa ra khuyến nghị về giới hạn số phôi chuyển tùy vào giai đoạn phôi và tiên lượng của bệnh nhân trong chu kỳ chuyển phôi trữ (FET- frozen embryo transfer) nhằm giảm tối thiểu đa thai nhưng vẫn đảm bảo tỷ lệ mang thai. Theo hướng dẫn này, eSET nên được áp dụng đối với nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt (là nhóm bệnh nhân trẻ < 38 tuổi, có ít nhất 1 phôi trữ chất lượng tốt, có phôi nguyên bội và đang thực hiện lần điều trị TTTON đầu tiên hoặc có trẻ sinh sống trong lần điều trị TTTON trước đó).
Ngoài ra, eSET được áp dụng chủ yếu đối với phôi nang hơn phôi ở giai đoạn phân chia. Bởi lẽ, hiệu quả thực hiện eSET phôi giai đoạn phân chia cho tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống thấp hơn so với eSET phôi nang. Một số nghiên cứu chuyển phôi nang cho thấy eSET sẽ giảm tỷ lệ đa thai từ 10 đến 20 lần so với thực hiện DET, nhưng tỷ lệ thai và tỷ lệ trẻ sinh sống không khác biệt có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, kết quả cân nặng của trẻ lúc sinh khác biệt đáng kể khi thực hiện eSET so với DET phôi nang tươi ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi (< 35 tuổi). Tuy nhiên, các kết quả sản khoa và sơ sinh của chiến lược chuyển đơn phôi còn quá ít công bố.
Ở Việt Nam, số nghiên cứu về hiệu quả chuyển phôi vẫn còn hạn chế. Chưa có nghiên cứu nào báo cáo về kết quả thai kì chuyển đơn phôi trữ chọc lọc, cũng như đưa ra khuyến cáo về số phôi chuyển cho từng nhóm bệnh nhân cụ thể. Trên các cơ sở đó, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu đánh giá hiệu quả của chiến lược chuyển đơn phôi chọn lọc so với chuyển hai phôi trong chu kỳ chuyển phôi trữ của nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt.
Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đa trung tâm được tiến hành tại các trung tâm TTTON thuộc hệ thống IVFMD trong thời gian từ tháng 1/2018 đến tháng 5/2020. Các bệnh nhân thoả tiêu chuẩn nhận loại được chia thành 4 nhóm: (1) chuyển một phôi ngày 3 chất lượng tốt (eSET D3), (2) chuyển một phôi nang ngày 5 chất lượng tốt (eSET D5), (3) chuyển 2 phôi ngày 3 chất lượng tốt (DET D3), (4) chuyển 2 phôi nang ngày 5 chất lượng tốt (DET D5).
Kết quả thu được là:
- Trong nhóm chuyển phôi ngày 3, tỷ lệ trẻ sinh sống và sinh song thai của eSET D3 thấp hơn đáng kể so với DET D3 (với tỷ lệ lần lượt là 22,7% so với 39,3%, p = 0,002; 3,3% so với 29,1%; p < 0,001).
- Trong nhóm chuyển phôi ngày 5, tỷ lệ sinh song thai ở eSET D5 giảm đáng kể so với DET D5 (9,6% so với 38,3%; p< 0,001) nhưng tỷ lệ trẻ sinh sống vẫn tương đương nhau (41,4% so với 42,8%; p < 0,74). Kết cục sơ sinh như cân nặng và tuổi thai của trẻ lúc sinh giữa eSET và DET tương đương nhau.
- Khi so sánh giữa 2 nhóm chuyển đơn phôi chọn lọc, eSET D3 cho tỷ lệ trẻ sinh sống thấp hơn đáng kể so với eSET D5; và tỷ lệ sinh song thai có xu hướng thấp hơn so với eSET D5, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê (9,6% so với 3,3%; p = 0,07). Vì thế, eSET D3 có thể là lựa chọn chuyển phôi phù hợp nhằm hạn chế tối đa song thai cùng hợp tử. Cân nặng trung bình của trẻ lúc sinh ở nhóm eSET D5 thấp hơn đáng kể (khoảng 227,6g) so với eSET D3 (p = 0,01), nhưng vẫn nằm trong khung tham chiếu cân nặng bình thường (2500 - 4000g) theo chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Trong khi đó, cân nặng của những trẻ sinh song thai ở 4 nhóm chuyển phôi đều nằm dưới ngưỡng tham chiếu an toàn. Kết quả này, một lần nữa củng cố nguy cơ về song thai nhẹ cân hơn so với trẻ đơn thai sinh sống.
Như vậy, ở nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt, chiến lược chuyển đơn phôi chọc lọc giúp hạn chế đáng kể tỷ lệ sinh song thai so với chuyển hai phôi nhưng vẫn đảm bảo tỷ lệ trẻ sinh sống cũng như các kết cục thai kỳ khác và kết cục sơ sinh. Chiến lược eSET D5 cho nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt là lựa chọn phù hợp, đảm bảo cân bằng giữa tỷ lệ trẻ sinh sống và giảm thiểu nguy cơ đa thai. Bên cạnh đó, thực hiện eSET D3 cho tỷ lệ trẻ sinh sống thấp nhất nhưng là chiến lược an toàn nhất với tỷ lệ sinh song thai, sẩy thai và nguy cơ trẻ sơ sinh nhẹ cân là thấp nhất. Kết quả nghiên cứu này có thể cung cấp chứng cứ khoa học hỗ trợ cho quá trình điều trị TTTON một cách an toàn và hiệu quả trên nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt tại hệ thống IVFMD cũng như tại Việt Nam.
Nguồn: Effectiveness of elective single versus double embryo transfer in good-prognosis IVF patients, Biomedical Research and Therapy, 2021, http://www.bmrat.org/index.php/BMRAT/article/view/658
Các tin khác cùng chuyên mục:
ẢNH HƯỞNG CỦA CHỈ SỐ KHỐI CƠ THỂ ĐẾN SỰ THÀNH CÔNG CỦA CHU KỲ IUI - Ngày đăng: 27-02-2021
SỰ SUY GIẢM CHẤT LƯỢNG TINH DỊCH Ở PHỤ NỮ CHUYỂN GIỚI - Ngày đăng: 27-02-2021
ICSI CÓ PHẢI LÀ NGUYÊN NHÂN LÀM PHÔI LỆCH BỘI HAY KHÔNG? - Ngày đăng: 27-02-2021
THỜI GIAN ĐÔNG LẠNH PHÔI NANG TỐI ƯU SAU KHI SINH THIẾT LÁ NUÔI PHÔI CHO XÉT NGHIỆM DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ - Ngày đăng: 19-02-2021
Tỷ lệ làm tổ tăng khi truyền vào tử cung một lượng nhỏ human Chorionic Gonadotropin (hCG) tại thời điểm chuyển phôi - Ngày đăng: 19-02-2021
So sánh ảnh hưởng của sitagliptin và metformin đối với chất lượng noãn và phôi ở bệnh nhân PCOS cổ điển thực hiện ICSI - Ngày đăng: 19-02-2021
SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỘ PHÂN MẢNH VÀ TỈ LỆ DỊ BỘI CỦA PHÔI - Ngày đăng: 06-02-2021
HPV và nguy cơ vô sinh ở nữ giới? - Ngày đăng: 06-02-2021
CHIẾN LƯỢC TẦM SOÁT MẠCH MÁU TIỀN ĐẠO - VASA PREVIA - Ngày đăng: 06-02-2021
TỔNG QUAN HỆ THỐNG VÀ PHÂN TÍCH GỘP VỀ KẾT CỤC CHU SINH CỦA THAI KỲ CÓ HỘI CHỨNG THIẾU MÁU – ĐA HỒNG CẦU SONG THAI (Twin anemia – polycythemia sequence - TAPS) - Ngày đăng: 06-02-2021
Rối loạn hệ vi sinh vật trong nội mạc tử cung có ảnh hưởng đến sự làm tổ của phôi hay không? - Ngày đăng: 06-02-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK