Tin tức
on Thursday 13-08-2020 2:39pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Hiện nay, tỷ lệ phụ nữ bị ung thư trong độ tuổi từ 15 đến 39 là 48.7/100.000 và ở phụ nữ từ 40 đến 44 là 180.1/100.000, chiếm 13% tổng số ung thư được chẩn đoán. Ung thư vú, cổ tử cung, tử cung, tuyến giáp và ung thư buồng trứng là những bệnh phổ biến nhất. Nhờ các phương pháp sàng lọc, chẩn đoán nhanh và các chiến lược điều trị hiệu quả hơn, tỷ lệ điều trị thành công ngày nay đã tăng lên và điều này khiến các bác sĩ quan tâm hơn đến các vấn đề về chất lượng cuộc sống lâu dài bao gồm khả năng làm mẹ của những phụ nữ bị ung thư. Bởi vì, liệu pháp điều trị thực sự có thể gây ra vô sinh như một tác dụng phụ, dẫn đến suy buồng trứng sớm, làm giảm cơ hội thụ thai của bệnh nhân. Bên cạnh đó, những bệnh nhân ung thư có thể sẽ bị ảnh hưởng đến chức năng buồng trứng. Trong những phương pháp dành cho bệnh nhân ung thư, đông lạnh noãn là phương án được ưu tiên nhất. Hiện nay, rất ít nghiên cứu báo cáo về bệnh nhân ung thư quay trở lại sử dụng noãn được bảo quản lạnh sau khi họ đã trải qua quá trình chữa trị thành công. Do đó, Cristina Specchia và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu nhằm đưa ra kết quả lâm sàng của những người phụ nữ quay trở lại thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm sau khi chữa trị ung thư thành công, từ đó thấy được hiệu quả của sự bảo tồn khả năng sinh sản của phụ nữ trước khi điều trị ung thư.
Nghiên cứu hồi cứu bao gồm tất cả bệnh nhân thực hiện đông lạnh noãn trước khi điều trị ung thư từ tháng 1 năm 2001 đến tháng 3 năm 2019. Noãn được thu nhận, sau đó đông lạnh bằng phương pháp đông lạnh chậm cho đến năm 2009 và phương pháp thủy tinh hóa từ năm 2010. Khi bệnh nhân trải qua quá trình chữa trị thành công, họ quay lại và thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm.
Kết quả cho thấy, có 244 phụ nữ đã trải qua 252 chu kỳ thu nhận noãn để đông lạnh. Đa số bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vú (59,9%), tiếp theo là ung thư hạch Hodgkin và không Hodgkin (27,4%). Một số ít bệnh nhân được chẩn đoán các khối u ác tính khác ảnh hưởng đến mô mềm (2,8%), buồng trứng (2,4%), hệ tiêu hóa (1,6%), bệnh bạch cầu (1,6%), cổ tử cung (1,2%). 3,1% còn lại bị ảnh hưởng bởi các loại ung thư khác. Sau khi điều trị thành công, 11 bệnh nhân đã quay lại để sử dụng noãn đông lạnh. Có 73 noãn (MII) được rã đông với tỷ lệ sống là 86,3%. Tổng cộng có 14 chu kỳ ICSI đã được thực hiện. Tỷ lệ thụ tinh và phân chia bình thường là 74,6%, thu được 47 phôi. Sau đó, có 24 phôi được chuyển trong 13 chu kỳ, tất cả đều ở giai đoạn phân chia. Kết quả có 4 trường hợp mang thai (tỷ lệ là 36,4%), trong 4 trường hợp này có 2 lần sẩy thai và 2 lần sinh (tỷ lệ sinh sống là 18,2%). Cả hai trường hợp mang thai đều sinh đủ tháng và không có bệnh nhân nào bị tái phát khi theo dõi ung thư.
Nghiên cứu cho thấy trong số những phụ nữ quay lại sau khi chữa trị ung thư thành công, đã có 2 em bé ra đời (chiếm 18,2%). Mặc dù nghiên cứu có cỡ mẫu nhỏ và chỉ có 4,5% bệnh nhân quay trở lại sử dụng noãn đông lạnh thì kết quả của nghiên cứu vẫn rất đáng khích lệ. Đặc biệt, nghiên cứu cho thấy sự hợp tác chặt chẽ giữa Trung tâm Ung thư và Khoa Sinh sản trong một bệnh viện là điều cần thiết để cung cấp một dịch vụ y tế tốt nhất cho bệnh nhân ung thư, đặc biệt là về bảo tồn khả năng sinh sản. Cung cấp dịch vụ bảo tồn khả năng sinh sản không nên được coi là tùy chọn nữa, mà phải được bao gồm trong mọi chương trình điều trị cho những phụ nữ được chẩn đoán ung thư trong độ tuổi sinh sản. Và đông lạnh noãn dường như là một phương án tốt để bảo tồn khả năng sinh sản.
Nguồn: Cristina Specchia1 (2019), “Oocyte Cryopreservation in Oncological Patients: Eighteen Years Experience of a Tertiary Care Referral Center”, Frontiers in Endocrinology, doi: 10.3389/fendo.2019.00600.
Từ khóa: Đông lạnh noãn ở bệnh nhân ung thư
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của các phương pháp đông lạnh khác nhau đến tính toàn vẹn dna và chất lượng nhiễm sắc chất tinh trùng ở nam giới - Ngày đăng: 13-08-2020
Sót phôi làm giảm tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu bắt cặp - Ngày đăng: 11-08-2020
Lão hóa tế bào mầm nguồn gốc từ cha: dự đoán độ tuổi methyl hóa DNA từ tinh trùng người - Ngày đăng: 11-08-2020
Phân tích mối tương quan giữa bất thường số lượng nhiễm sắc thể và tuổi tác bằng phương pháp niPGT-A - Ngày đăng: 11-08-2020
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp về kết cục chu sinh của mạch máu tiền đạo được chẩn đoán trước sinh - Ngày đăng: 11-08-2020
Tìm thấy sars - coronavirus 2 trong mô nhau và màng ối - Ngày đăng: 11-08-2020
Sử dụng NGS trong chẩn đoán lệch bội, đột biến cấu trúc và phát hiện thể khảm ở PGT-A và PGT-SR - Ngày đăng: 12-08-2020
Tỉ lệ thành công ở những trường hợp chuyển một phôi loại tốt cùng một phôi loại kém trong điều trị hiếm muộn? - Ngày đăng: 12-08-2020
Ảnh hưởng của viêm nội mạc tử cung mãn tính lên việc thất bại nhiều lần trong điều trị IVF - Ngày đăng: 12-08-2020
Ngưỡng AFC mới trong chẩn đoán hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 12-08-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK