Tin tức
on Wednesday 12-08-2020 11:21am
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Nguyễn Thành Nam, nhóm MD PSG
Hội chứng buồng trứng đa nang (polycystic ovary syndrome, PCOS) thường được chẩn đoán theo tiêu chuẩn Rotterdam (2004). Trong đó, bệnh nhân cần thỏa 2 trong 3 tiêu chuẩn: (1) thiểu kinh hoặc vô kinh (oligo-and/or amenorrhea, IM), (2) cường androgen (hyperandrogenism, HA), (3) hình ảnh buồng trứng đa nang trên siêu âm (polycystic ovary, PCO). PCO được quy định khi buồng trứng có ≥ 12 nang có hốc (antral follicle count, AFC) có kích thước 2-9 mm hoặc kích thước buồng trứng > 10cm3. Dựa trên tiêu chuẩn Rotterdam (2004), PCOS được chia làm 4 phenotypes khác nhau (i) IM/HA/PCO, (ii) IM/HA, (iii) HA/PCO and (iv) IM/PCO. Gần đây, một hướng dẫn lâm sàng quốc tế khuyến cáo áp dụng một ngưỡng AFC mới để chẩn đoán PCOS ở phụ nữ trưởng thành, khi có ≥ 20 nang có hốc ghi nhận trên siêu âm đầu dò âm đạo sử dụng sóng cao tần, với tần số trung tâm 8 MHz.
Kim và cs. (2020) đã thực hiện một nghiên cứu nhằm khảo sát những ảnh hưởng của ngưỡng AFC mới trên lâm sàng. 1390 phụ nữ Hàn Quốc trưởng thành (20-40 tuổi), được chẩn đoán ban đầu là PCOS theo tiêu chuẩn Rotterdam (2004) tham gia nghiên cứu. Siêu âm qua ngả âm đạo với đầu dò có dải tần số rộng (5-9 MHz), tần số trung tâm là 8 MHZ được thực hiện. 255 phụ nữ có AFC thấp, định nghĩa khi AFC từ 12-19 và thể tích buồng trứng < 10 cm3 được tập trung phân tích chủ yếu vì nhóm này bị loại khỏi chẩn đoán bị PCOS ban đầu, nếu xét theo ngưỡng AFC mới. Nhóm phụ nữ còn lại có AFC cao, định nghĩa khi AFC ≥ 20 và thể tích buồng trứng < 10 cm3. 562 phụ nữ khác ở độ tuổi chưa mãn kinh, không bị PCOS được chọn làm nhóm chứng.
Kết quả phân tích cho thấy, trong số bệnh nhân IM/PCO hoặc HA/PCO, trung bình khoảng 1 nửa (48.2%) bị loại khỏi chẩn đoán PCOS, tương đương 1/5 (18.3%) tổng số bệnh nhân. Tuy nhiên, khi tiến hành phân tích bệnh-chứng, nhóm có AFC thấp được phát hiện có tình trạng chuyển hóa và nội tiết tố rối loạn nhiều hơn nhóm chứng, mặc dù nếu xét theo tiêu chuẩn mới, nhóm này không được chẩn đoán PCOS. Tương tự, khi so sánh nhóm có AFC thấp và nhóm có AFC cao, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về BMI, nồng độ androgen và các thông số chuyển hóa khác.
Tóm lại, những phát hiện này cho thấy rằng sẽ có một tỷ lệ đáng kể phụ nữ bị PCOS được chẩn đoán là ‘không bị PCOS’ nếu dựa trên ngưỡng AFC mới. Đối với nhóm bệnh nhân đến khám với biểu hiện rối loạn chu kỳ kinh nguyệt, hoặc cường androgen, việc xác định AFC thấp hay cao không có nhiều ý nghĩa trên lâm sàng. Do đó, nếu bệnh nhân đến khám có AFC thấp, vẫn cần thiết phải tạo lập chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, kiểm soát các triệu chứng cường androgen và thường xuyên đánh giá những triệu chứng của PCOS (mới xuất hiện hoặc trở nên trầm trọng thêm), cũng như các rối loạn chuyển hóa khác. Kiểu hình IM/PCO là một kiểu hình chính của PCOS ở khu vực Đông Nam Á; do vậy, việc thay đổi ngưỡng AFC có thể gây ảnh hưởng lớn đến nhóm dân số này. Các tác giả đề nghị cần thêm nhiều nghiên cứu đánh giá ngưỡng AFC mới này trên nhiều chủng tộc khác nhau.
Nguồn: Kim JJ, Hwang KR, Chae SJ, Yoon SH, Choi YM. Impact of the newly recommended antral follicle count cutoff for polycystic ovary in adult women with polycystic ovary syndrome. Hum Reprod. 2020;35(3):652-659. doi:10.1093/humrep/deaa012.
Kim và cs. (2020) đã thực hiện một nghiên cứu nhằm khảo sát những ảnh hưởng của ngưỡng AFC mới trên lâm sàng. 1390 phụ nữ Hàn Quốc trưởng thành (20-40 tuổi), được chẩn đoán ban đầu là PCOS theo tiêu chuẩn Rotterdam (2004) tham gia nghiên cứu. Siêu âm qua ngả âm đạo với đầu dò có dải tần số rộng (5-9 MHz), tần số trung tâm là 8 MHZ được thực hiện. 255 phụ nữ có AFC thấp, định nghĩa khi AFC từ 12-19 và thể tích buồng trứng < 10 cm3 được tập trung phân tích chủ yếu vì nhóm này bị loại khỏi chẩn đoán bị PCOS ban đầu, nếu xét theo ngưỡng AFC mới. Nhóm phụ nữ còn lại có AFC cao, định nghĩa khi AFC ≥ 20 và thể tích buồng trứng < 10 cm3. 562 phụ nữ khác ở độ tuổi chưa mãn kinh, không bị PCOS được chọn làm nhóm chứng.
Kết quả phân tích cho thấy, trong số bệnh nhân IM/PCO hoặc HA/PCO, trung bình khoảng 1 nửa (48.2%) bị loại khỏi chẩn đoán PCOS, tương đương 1/5 (18.3%) tổng số bệnh nhân. Tuy nhiên, khi tiến hành phân tích bệnh-chứng, nhóm có AFC thấp được phát hiện có tình trạng chuyển hóa và nội tiết tố rối loạn nhiều hơn nhóm chứng, mặc dù nếu xét theo tiêu chuẩn mới, nhóm này không được chẩn đoán PCOS. Tương tự, khi so sánh nhóm có AFC thấp và nhóm có AFC cao, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về BMI, nồng độ androgen và các thông số chuyển hóa khác.
Tóm lại, những phát hiện này cho thấy rằng sẽ có một tỷ lệ đáng kể phụ nữ bị PCOS được chẩn đoán là ‘không bị PCOS’ nếu dựa trên ngưỡng AFC mới. Đối với nhóm bệnh nhân đến khám với biểu hiện rối loạn chu kỳ kinh nguyệt, hoặc cường androgen, việc xác định AFC thấp hay cao không có nhiều ý nghĩa trên lâm sàng. Do đó, nếu bệnh nhân đến khám có AFC thấp, vẫn cần thiết phải tạo lập chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, kiểm soát các triệu chứng cường androgen và thường xuyên đánh giá những triệu chứng của PCOS (mới xuất hiện hoặc trở nên trầm trọng thêm), cũng như các rối loạn chuyển hóa khác. Kiểu hình IM/PCO là một kiểu hình chính của PCOS ở khu vực Đông Nam Á; do vậy, việc thay đổi ngưỡng AFC có thể gây ảnh hưởng lớn đến nhóm dân số này. Các tác giả đề nghị cần thêm nhiều nghiên cứu đánh giá ngưỡng AFC mới này trên nhiều chủng tộc khác nhau.
Nguồn: Kim JJ, Hwang KR, Chae SJ, Yoon SH, Choi YM. Impact of the newly recommended antral follicle count cutoff for polycystic ovary in adult women with polycystic ovary syndrome. Hum Reprod. 2020;35(3):652-659. doi:10.1093/humrep/deaa012.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tầm soát các cá thể dị hợp tử (CARRIER) gene gây hội chứng xơ nang (CYSTIC FIBROSIS) trên đối tượng hiến tinh trùng: so sánh giữa phương pháp phân tích trình tự toàn gene CFTR và phương pháp Genotyping gene CFTR - Ngày đăng: 10-08-2020
Sự khác biệt về kiểu Methyl hoá dna và chất lượng tinh trùng ở những bệnh nhân giãn tĩnh mạch thừng tinh - Ngày đăng: 08-08-2020
Đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học và tâm lí của nam giới hút thuốc vô sinh ở Đông Bắc Trung Quốc - Ngày đăng: 08-08-2020
Mối quan hệ giữa mức độ tự miễn dịch của tinh trùng với khả năng có con từ thai tự nhiên và thai sau bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 06-08-2020
Phân tích phospholipase C zeta để xác định đối tượng cần sử dụng phương pháp hoạt hóa noãn nhân tạo - Ngày đăng: 06-08-2020
Cửa sổ làm tổ có khác nhau giữa phôi nang ngày 5 và 6 hay không? - Ngày đăng: 06-08-2020
Đau răng trong thai kỳ: nguyên nhân và điều trị - Ngày đăng: 06-08-2020
Cúm trong thai kỳ - Ngày đăng: 06-08-2020
Ảnh hưởng của tỷ lệ hình thái tinh trùng bình thường (normal sperm morphology rate -NSMR) đến kết quả lâm sàng và sơ sinh của chu kỳ IVF cổ điển - Ngày đăng: 06-08-2020
Hút thuốc lá gây ảnh hưởng đến chất lượng tinh dịch và sự toàn vẹn DNA của tinh trùng ở nam giới bình thường và vô sinh - một nghiên cứu tiến cứu - Ngày đăng: 06-08-2020
Tầm quan trọng của nữ hộ sinh trong chăm sóc sức khỏe phụ nữ - Ngày đăng: 06-08-2020
HIV và thai kỳ - Ngày đăng: 06-08-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK