Tin tức
on Thursday 06-08-2020 8:46am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trịnh Thị Thùy Trang - IVFVH
Chu kỳ chuyển phôi trữ (FET) đang trở thành một quy trình phổ biến. Từ năm 2008 đến năm 2016, số chu kỳ trữ lạnh được báo cáo cho United States Centers for Disease Control (CDC) đã tăng hơn ba lần, từ 25.261 lên 86.266. Ngược lại, trong khoảng thời gian này, số chu kỳ phôi tươi giảm từ 104.673 trong năm 2008 xuống còn 86.237 vào năm 2016. Trong báo cáo CDC gần đây nhất từ năm 2016, lần đầu tiên, số chu kỳ FET đã vượt qua số chu kỳ phôi tươi. Việc sử dụng FET ngày càng tăng là kết quả của một số yếu tố, bao gồm sử dụng GnRH agonist để ngăn ngừa hội chứng quá kích buồng trứng, sử dụng xét nghiệm di truyền tiền làm tổ và tăng chu kỳ chuyển đơn phôi do đó làm tăng số lượng phôi còn dư lại cho trữ lạnh.
Có khả năng việc sử dụng FET ngày càng tăng, vì các chu kỳ này có tỉ lệ thành công ngày càng cao hơn. Từ 2008 đến 2016, tỷ lệ sinh sống sau FET tăng 50% (30,6% năm 2008 và 45,9% năm 2016), trong khi tỷ lệ sinh sống vẫn ổn định ở chu kỳ phôi tươi (36,7% năm 2008 và 36,3% năm 2016). Những tiến bộ trong kỹ thuật bảo quản phôi, sử dụng phương pháp thủy tinh hóa, cùng với những cải tiến trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ cho aneuploidy, đã dẫn đến kết quả tốt hơn sau FET.
Mặc dù thành công ngày càng tăng của FET, tỷ lệ sinh sống vẫn dưới 50%. Thành công của FET phụ thuộc vào sự đồng bộ giữa phôi và nội mạc tử cung để nội mạc tử cung có khả năng tiếp nhận tối ưu cho phôi làm tổ. Thời điểm sử dụng progesterone là rất quan trọng để thiết lập cửa sổ làm tổ (window of implantation - WOI), thời gian mà nội mạc tử cung trở nên dễ tiếp nhận để cấy phôi. Cửa sổ làm tổ sẽ được mở một vài ngày sau khi bắt đầu sử dụng progesterone. Các nghiên cứu ban đầu cho thấy WOI khá rộng cho việc cấy phôi trong khoảng thời gian 5 ngày, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy thời gian WOI không quá hai ngày. Một số phụ nữ bị dời WOI có thể được chẩn đoán bằng cách sử dụng các dấu hiệu phân tử của thụ thể nội mạc tử cung. Đối với những phụ nữ này, việc điều chỉnh khởi đầu progesterone liên quan đến ET sẽ đồng bộ hóa nội mạc tử cung tốt hơn.
Thời điểm tối ưu để sử dụng progesterone trước khi FET vẫn chưa được xác định. Roelens và các đồng nghiệp tìm cách giải quyết vấn đề này và nghiên cứu các kết quả lâm sàng trong các chu kỳ FET của phôi nang được thực hiện vào ngày thứ sáu hoặc thứ bảy sau khi sử dụng progesterone. Các tác giả đã kiểm tra dữ liệu từ 619 phụ nữ đã trải qua FET phôi nang trước đó, giữa tháng 12 năm 2015 và tháng 12 năm 2017. Họ đã tìm thấy tỷ lệ sẩy thai và sinh sống tương đương giữa các nhóm. Điều thú vị là, khi họ thực hiện phân tích phân nhóm để so sánh kết quả sử dụng progesterone cho phôi nang ngày 5 và ngày 6, họ đã tìm thấy kết quả lâm sàng tốt hơn khi sử dụng progesterone lâu hơn ở phôi nang ngày 6. Tỷ lệ sẩy thai cao hơn đáng kể khi ET phôi nang ngày 6 được thực hiện vào ngày thứ sáu sử dụng progesterone (50%) so với ngày thứ bảy (21,4%). Cũng có xu hướng tỷ lệ sinh sống thấp hơn đối với phôi nang ngày 6 được chuyển vào ngày thứ sáu (21,5%) so với ngày thứ 7 của progesterone (35,5%). Những dữ liệu này cho thấy rằng sự phát triển của phôi về bản chất là khác nhau và đòi hỏi thời gian tiếp xúc progesterone lâu hơn để đồng bộ hóa tối ưu nội mạc tử cung.
Nhiều nghiên cứu đã cố gắng xác định xem phôi phát triển thành phôi nang vào ngày thứ sáu sau khi thụ tinh có khác biệt cơ bản với những phôi trở thành phôi nang vào ngày thứ năm sau khi thụ tinh hay không. Các nghiên cứu được thực hiện để xác định xem kết quả lâm sàng có khác nhau sau khi chuyển phôi nang ngày 5 và ngày 6 có kết quả mâu thuẫn hay không, đặc biệt là trong các chu kỳ FET, một phần, có thể là do sự khác biệt trong kỹ thuật bảo quản lạnh được sử dụng. Trong các nghiên cứu cũ, bảo quản lạnh phôi được thực hiện bằng kỹ thuật đông lạnh chậm, trong khi kỹ thuật thủy tinh hóa thành công hơn thường được sử dụng trong các nghiên cứu gần đây.
Năm 2019, Bourdon và các đồng nghiệp đã công bố một tổng quan hệ thống kiểm tra kết quả lâm sàng của chu kỳ tươi và đông lạnh sau khi chuyển phôi nang ngày 5 so với phôi ngày 6. Đánh giá của họ bao gồm dữ liệu từ 29 nghiên cứu, được công bố từ năm 2005 đến 2018 và phân biệt giữa các kết quả của kỹ thuật đông lạnh chậm và thủy tinh hóa. Phân tích tổng hợp này cho thấy tỷ lệ mang thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống cao hơn đáng kể sau ET của phôi nang ngày 5 so với phôi nang ngày 6 ở cả chu kỳ chuyển phôi tươi và chu kỳ FET với phôi đã được thủy tinh hóa trước đó. Tỷ lệ sẩy thai cao hơn đáng kể sau ET của phôi nang ngày 6 so với phôi nang ngày 5 trong cả chu kỳ tươi và chu kỳ FET sử dụng phôi đã trải qua quá trình thủy tinh hóa.
Câu hỏi chưa được trả lời là liệu kết quả vượt trội được thấy khi chuyển phôi nang ngày 5 có phải là do phôi chất lượng tốt hơn về bản chất với tiềm năng làm tổ vượt trội hay do đồng bộ hóa tốt hơn với nội mạc tử cung. Trong các chu kỳ tươi, tỷ lệ làm tổ giảm được thấy khi chuyển phôi ngày 6 đã được quy cho sự đồng bộ dưới mức tối ưu giữa phôi và nội mạc tử cung thay vì khiếm khuyết vốn có trong phôi ngày 6. Kết quả kích thích buồng trứng có kiểm soát trong sự phát triển nội mạc tử cung với WOI trước đó, sẽ không tối ưu cho phôi nang ngày 6 phát triển chậm. Phù hợp với phát hiện này, các nghiên cứu cũ cho thấy phôi nang ngày 6 có tỷ lệ làm tổ cao hơn và tỷ lệ mang thai diễn tiến khi được đồng bộ hóa trong chu kỳ FET so với ET tươi.
Trong phân tích tổng hợp này, kết quả lâm sàng tốt hơn cũng được thấy trong các chu kỳ FET sau khi chuyển phôi nang ngày 5 so với phôi nang ngày 6, điều này sẽ chống lại sự đồng bộ nội mạc tử cung dưới mức tối ưu là nguyên nhân duy nhất dẫn đến kết quả lâm sàng kém hơn sau khi chuyển phôi ngày 6. Thực tế là kết quả vượt trội đã được ghi nhận trong phôi nang ngày 5 sẽ phù hợp với giả thuyết rằng phôi phát triển chậm có tiềm năng làm tổ thấp hơn, có lẽ do sự khác biệt về trao đổi chất hoặc thượng di truyền. Tuy nhiên, những phát hiện của Roelens và các đồng nghiệp sẽ cho thấy rằng phôi nang ngày 6 phát triển chậm hơn có khả năng cấy ghép nhưng có thể có WOI khác và có thể hẹp hơn so với phôi ngày 5. Với phôi nang ngày 5 được rã đông sau khi trữ lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa, kết quả lâm sàng tương tự đã được thấy khi ET diễn ra vào ngày thứ sáu hoặc thứ bảy của progesterone, nhưng kết quả phôi nang ngày 6 đã thấy tốt hơn với thời gian sử dụng progesterone lâu hơn.
Nghiên cứu này của Roelens et al. đại diện cho một tiến bộ khác trong nhiệm vụ cải thiện kết quả ET và IVF. Nghiên cứu cho thấy rằng một số bệnh nhân không thụ thai sau ET do thời gian dưới mức tối ưu hơn là vấn đề bệnh lý. Nói chung, thời gian tiếp xúc progesterone trước khi ET được coi là bằng nhau cho phôi ngày 5 và 6. Bằng cách xem xét giai đoạn phát triển của phôi nang và chuẩn bị nội mạc tử cung một cách tối ưu, bệnh nhân có thể có tỷ lệ sinh sống cao hơn và tỷ lệ sẩy thai thấp hơn. Mặc dù không có ý nghĩa thống kê, trong nghiên cứu này, thêm một ngày điều trị progesterone đã dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ sinh sống đối với phôi nang phát triển chậm. Nếu kết quả nghiên cứu hồi cứu của họ được xác nhận trong một thử nghiệm lớn hơn, một sự thay đổi đơn giản trong thời gian tiếp xúc với progesterone có thể dẫn đến cải thiện đáng kể kết quả IVF.
Nguồn: It’s all about timing: Is the window of implantation different for day 5 and 6 blastocysts? Fertility and Sterility Home. DOI: https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2020.04.031.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Đau răng trong thai kỳ: nguyên nhân và điều trị - Ngày đăng: 06-08-2020
Cúm trong thai kỳ - Ngày đăng: 06-08-2020
Ảnh hưởng của tỷ lệ hình thái tinh trùng bình thường (normal sperm morphology rate -NSMR) đến kết quả lâm sàng và sơ sinh của chu kỳ IVF cổ điển - Ngày đăng: 06-08-2020
Hút thuốc lá gây ảnh hưởng đến chất lượng tinh dịch và sự toàn vẹn DNA của tinh trùng ở nam giới bình thường và vô sinh - một nghiên cứu tiến cứu - Ngày đăng: 06-08-2020
Tầm quan trọng của nữ hộ sinh trong chăm sóc sức khỏe phụ nữ - Ngày đăng: 06-08-2020
HIV và thai kỳ - Ngày đăng: 06-08-2020
Mất ngủ trong mùa dịch covid-19 - Ngày đăng: 06-08-2020
Vai trò của giới hạn vận động trong quản lý thai kỳ - Ngày đăng: 06-08-2020
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ không xâm lấn (niPGT): cuộc cách mạng trong chẩn đoán di truyền - Ngày đăng: 04-08-2020
Mối tương quan giữa tỉ lệ tiêu thụ oxy ti thể của phôi và tuổi mẹ - Ngày đăng: 03-08-2020
Thụ thể của Nicotine - dấu chỉ tiềm năng cho những tổn hại tinh trùng liên quan đến hút thuốc - Ngày đăng: 03-08-2020
Mối liên quan giữa thói quen hút thuốc và thông số tinh trùng - Ngày đăng: 03-08-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK