Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 06-08-2020 8:48am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trịnh Thị Thùy Trang - IVFVH

Trong những năm gần đây, công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) đã cải thiện đáng kể kết quả mang thai cho các cặp vợ chồng vô sinh. Thụ tinh trong ống nghiệm thông thường (IVF) chủ yếu được sử dụng trong các trường hợp vô sinh nữ, trong khi tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) đặc biệt giải quyết yếu tố vô sinh liên quan đến nam giới. Ngoài ra, ICSI là một lựa chọn hiệu quả cho các cặp vợ chồng thất bại nhiều lần với IVF thông thường. Theo số liệu do Human Fertilisation and Embryology Authority (HFEA) công bố năm 2014, yếu tố nam có liên quan đến 10% trường hợp IVF thất bại và 50,4% trường hợp ICSI thất bại. Mặc dù đảm bảo tiêm trực tiếp một tinh trùng vào một noãn bào, nhưng thất bại thụ tinh hoàn toàn (TFF), trong đó tất cả các noãn trưởng thành không thụ tinh, vẫn là một vấn đề xảy ra trong 1% - 3% chu kỳ ICSI. Ngoài ra, khả năng thất bại thụ tinh tái phát có thể lên tới 30%. Nguyên nhân chính của TFF là do sự thất bại hoạt hóa noãn bào (OAD).
 

Quá trình sinh hóa chính đằng sau hoạt hóa noãn bào của động vật có vú bao gồm một loạt các dao động ion canxi (Ca2+) được giải phóng từ mạng lưới nội chất. OAD có thể xuất phát từ các yếu tố liên quan đến nữ hoặc nam. Lý do chính dẫn đến OAD là sự thiếu hụt phospholipase C zeta (PLCz), một yếu tố đặc trưng cho tinh trùng. Hiện nay có bằng chứng khoa học và lâm sàng đáng kể để hỗ trợ vai trò của PLCz trong việc giải phóng Ca2+ và kích hoạt noãn bào. PLCz là một protein đặc hiệu tinh hoàn nằm trong đầu tinh trùng. Tiêm PLCz cRNA và PLCz tái tổ hợp vào noãn chuột đã được chứng minh là có hiệu quả tạo ra sự giải phóng Ca2+.

Vai trò quan trọng của PLCz trong hoạt hóa noãn đã được chứng minh bởi bằng chứng cho thấy lượng PLCz thấp bất thường hoặc bị giảm hoạt động dẫn đến OAD. Cường độ huỳnh quang miễn dịch tương đối của PLCz ở bệnh nhân vô sinh được chẩn đoán mắc OAD đã được tìm thấy là thấp hơn đáng kể so với những người có khả năng sinh sản bình thường. Ngoài ra, PLCz có liên quan đến các thông số tinh dịch, hình thái tinh trùng và tuổi nam.

Hiện tại, lựa chọn lâm sàng khả thi duy nhất để khắc phục OAD là hoạt hóa noãn bào nhân tạo (AOA). AOA liên quan đến việc sử dụng các kích thích cơ học, vật lý hoặc hóa học khác nhau để tạo ra sự giải phóng Ca2+, và nó đã thành công trong việc hoạt hóa noãn ở người. Tuy nhiên, AOA có thể tạo ra sự gia tăng nồng độ của Ca2+ trong noãn thay vì tạo các làn sóng dao động Ca2+, và nó cũng có thể dẫn đến sự dị hóa trong quá trình tạo phôi của động vật có vú. Do đó, HFEA khuyến cáo rằng điều trị bằng AOA nên được giới hạn ở những bệnh nhân vô sinh có bằng chứng rõ ràng về OAD, ví dụ, thiếu PLCz. Tuy nhiên, khả năng ứng dụng chẩn đoán của AOA trong thực hành lâm sàng vẫn chưa rõ ràng và khác nhau giữa các phòng khám. Hầu hết các phòng khám IVF thực hiện AOA chủ yếu dựa trên tiền sử bệnh nhân mắc TFF, thất bại thụ tinh nhiều lần, tỷ lệ thụ tinh thấp trong ICSI, hình thái tinh trùng bất thường hoặc nghi ngờ OAD.

Nghiên cứu hiện tại nhằm sử dụng xét nghiệm PLCz để đánh giá biểu hiện protein PLCz ở bệnh nhân có tiền sử thất bại thụ tinh sau IVF / ICSI và để xác định các tiêu chí để thực hiện AOA. Bệnh nhân vô sinh bị thiếu hụt PLCz trong tinh trùng của họ, cho thấy rằng bất kỳ sự bất thường nào trong gen PLCz và / hoặc protein có thể đóng vai trò chính trong thất bại IVF / ICSI. Ngoài ra, PLCz có liên quan đến hình thái tinh trùng bất thường. Tinh trùng teratozoospermic cho thấy mức độ PLCz giảm và tinh trùng globozoospermic biểu hiện mức độ mRNA và protein của PLCz thấp hơn đáng kể so với tinh trùng ở người có khả năng sinh sản. Nói chung, kết quả của tác giả cho thấy PLCz là một dấu ấn sinh học đầy hứa hẹn để chẩn đoán OAD và dự đoán kết quả thụ tinh trong ICSI.

AOA là một lựa chọn tiềm năng cho trường hợp khả năng thụ tinh thấp hoặc TFF và là lựa chọn duy nhất để khắc phục OAD. Dữ liệu của tác giả chứng minh rằng phân tích PLCz có tiềm năng đáng kể trong việc thông báo chính xác cho bác sĩ lâm sàng về việc bệnh nhân đủ điều kiện trải qua AOA cũng như tiên lượng điều trị.

So với 13 bệnh nhân trong nhóm chứng có khả năng sinh sản bình thường, 34 trong số 43 nam giới vô sinh có mức độ PLCz thấp hơn đáng kể và / hoặc tỷ lệ tinh trùng biểu hiện PLCz thấp hơn đáng kể. Trong số 34 bệnh nhân này, 15 bệnh nhân cho thấy giảm đáng kể PLCz ở cả hai tham số, mà chúng tôi gọi là thiếu hụt PLCz. Hiện tại, 5 bệnh nhân thiếu PLCz đã chọn tham gia AOA; tất cả họ có noãn được thụ tinh, và bốn trong số đó mang thai lâm sàng và sinh sống. Tỷ lệ thụ tinh được cải thiện đáng kể từ 18,6% (ICSI) lên 56,8% (ICSI / AOA). Tỷ lệ mang thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống với AOA đều là 40% mỗi chu kỳ.

Phân tích PLCz là một công cụ chẩn đoán hữu ích để xác định bệnh nhân có đủ điều kiện cho thực hiện AOA ở chu kỳ tiếp theo.

Nguồn: Use of phospholipase C zeta analysis to identify candidates for artificial oocyte activation: a case series of clinical pregnancies and a proposed algorithm for patient management. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2020.02.113

Các tin khác cùng chuyên mục:
Cúm trong thai kỳ - Ngày đăng: 06-08-2020
HIV và thai kỳ - Ngày đăng: 06-08-2020
Mất ngủ trong mùa dịch covid-19 - Ngày đăng: 06-08-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK