Tin tức
Sót phôi làm giảm tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu bắt cặp
on Tuesday 11-08-2020 11:57am
Danh mục: Tin quốc tế
Phạm Hoàng Huy – Chuyên viên phôi học IVFMD Phú Nhuận
Chuyển phôi là công đoạn cuối cùng của quy trình thụ tinh trong ống nghiệm. Sót phôi sau chuyển phôi (ER) là vấn đề không phổ biến nhưng có thể gây lo lắng cho bệnh nhân và bác sỹ. Tỉ lệ ER được báo cáo nằm trong khoảng 1 đến 7,5% các chu kì chuyển phôi. Các nguyên nhân dẫn đến ER có thể là khó khăn tại thời điểm chuyển phôi, catheter dính dịch nhầy hoặc máu sau khi chuyển phôi, thể tích môi trường nạp vào catheter hay kinh nghiệm của bác sỹ. Khi ER xảy ra, chuyển phôi được thực hiện lại ngay sau đó. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng rõ ràng về việc chuyển lại phôi có tác động như thế nào đến kết cục lâm sàng. Jian và cộng sự vừa thực hiện một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu bắt cặp với cỡ mẫu lớn để đánh giá tương quan giữa ER và kết cục lâm sàng.
Nghiên cứu lấy dữ liệu của tất cả chu kì IVF tại một trung tâm TTTON ở Trung Quốc từ năm 2013 đến 2018. Tất cả chu kì có xảy ra ER và chuyển phôi lại ngay sau đó đều được tham gia vào nghiên cứu. Nhóm bắt cặp được lựa chọn dựa trên các tiêu chí sau: tuổi (±1 năm); thông số phôi (tuổi phôi, số lượng, chất lượng); nguyên nhân vô sinh; loại phác đồ KTBT và chuẩn bị MNTC; bác sỹ chuyển phôi; ngày thủ thuật (±1 năm); CVPH load phôi; thời gian vô sinh (±2 năm) và phương pháp thụ tinh. Kết cục lâm sàng được quan sát bao gồm: tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ thai ngoài tử cung, tỉ lệ sẩy thai và tỉ lệ trẻ sinh sống.
Có tổng cộng 6089 chu kì chuyển phôi được thống kê. Tỉ lệ ER được ghi nhận là 1,59% (97/6089), và tất cả phôi còn sót đều được chuyển lại ngay lập tức. Có 194 chu kì chuyển phôi không ER được bắt cặp với nhóm ER (tỉ lệ 1:2). Không có sự khác biệt có ý nghĩa về đặc điểm nền của bệnh nhân giữa hai nhóm. So với nhóm bắt cặp, nhóm ER cho thấy tỉ lệ thai lâm sàng (32,98% so với 48,96%), tỉ lệ làm tổ (20,88% so với 35,97%) và tỉ lệ trẻ sinh sống (22,68% so với 37,63%) đều thấp hơn đáng kể (P <0,01) và tỷ lệ thai ngoài tử cung cao hơn (12,5% so với 3,16%, P <0,05). Không có sự khác biệt về tỉ lệ sẩy thai, cân nặng trẻ và tuổi thai khi sinh. Không có các khuyết tật bẩm sinh được tìm thấy trong nhóm ER, mặc dù một trường hợp quan sát thấy trong nhóm bắt cặp. Tỉ lệ ER giữa chuyển phôi phân chia và phôi nang là tương đương nhau. Có sự khác biệt ý nghĩa khi so sánh tỉ lệ giữa chu kì chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ (2,71% so với 1,08%, P<0,01). Ngoài ra, tỉ lệ có dịch nhầy ở catheter trong nhóm ER là cao hơn so với nhóm bắt cặp, nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê trong nhóm chuyển phôi tươi. Tác giả giả thuyết rằng tăng chất nhầy cổ tử cung ở chu kì phôi tươi có thể làm tăng nguy cơ ER, do nồng độ estradiol cao hơn so với chu kì phôi trữ.
Tóm lại, tỉ lệ sót phôi có liên quan đến dịch nhầy ở catheter sau chuyển phôi tươi. Sót phôi và chuyển lại phôi có liên quan đến tỉ lệ làm tổ, thai lâm sàng, tỉ lệ trẻ sinh sống thấp hơn và tăng nguy cơ thai ngoài tử cung.
Nguồn: Embryo retention significantly decreases clinical pregnancy rate and live birth rate: a matched retrospective cohort study. Fertility and Sterility, 2020.
Từ khóa: Sót phôi làm giảm tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu bắt cặp
Các tin khác cùng chuyên mục:
Lão hóa tế bào mầm nguồn gốc từ cha: dự đoán độ tuổi methyl hóa DNA từ tinh trùng người - Ngày đăng: 11-08-2020
Phân tích mối tương quan giữa bất thường số lượng nhiễm sắc thể và tuổi tác bằng phương pháp niPGT-A - Ngày đăng: 11-08-2020
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp về kết cục chu sinh của mạch máu tiền đạo được chẩn đoán trước sinh - Ngày đăng: 11-08-2020
Tìm thấy sars - coronavirus 2 trong mô nhau và màng ối - Ngày đăng: 11-08-2020
Sử dụng NGS trong chẩn đoán lệch bội, đột biến cấu trúc và phát hiện thể khảm ở PGT-A và PGT-SR - Ngày đăng: 12-08-2020
Tỉ lệ thành công ở những trường hợp chuyển một phôi loại tốt cùng một phôi loại kém trong điều trị hiếm muộn? - Ngày đăng: 12-08-2020
Ảnh hưởng của viêm nội mạc tử cung mãn tính lên việc thất bại nhiều lần trong điều trị IVF - Ngày đăng: 12-08-2020
Ngưỡng AFC mới trong chẩn đoán hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 12-08-2020
Tầm soát các cá thể dị hợp tử (CARRIER) gene gây hội chứng xơ nang (CYSTIC FIBROSIS) trên đối tượng hiến tinh trùng: so sánh giữa phương pháp phân tích trình tự toàn gene CFTR và phương pháp Genotyping gene CFTR - Ngày đăng: 10-08-2020
Sự khác biệt về kiểu Methyl hoá dna và chất lượng tinh trùng ở những bệnh nhân giãn tĩnh mạch thừng tinh - Ngày đăng: 08-08-2020
Đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học và tâm lí của nam giới hút thuốc vô sinh ở Đông Bắc Trung Quốc - Ngày đăng: 08-08-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK