Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 26-06-2020 12:54pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CNSH. Phan Thị Nhật Vy – Chuyên viên phôi học IVFAS


Trữ lạnh noãn hiện nay đã trở thành một chiến lược được áp dụng thường xuyên nhằm bảo tồn khả năng sinh sản cũng như cộng dồn noãn đối với những bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém. Việc dự đoán tỉ lệ sống sau rã noãn vẫn còn là thử thách do sự nhạy cảm của noãn với sự thay đổi nhiệt độ và quá trình khử nước – bù nước. Mặc dù kĩ thuật trữ lạnh noãn ngày càng phát triển giúp cải thiện kết quả điều trị, vẫn có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ sống sau rã noãn, tỉ lệ phát triển thành phôi và tỉ lệ trẻ sinh sống trong đó có tuổi vợ. Nhiều nghiên cứu cho thấy tuổi vợ <35 tuổi hoặc trường hợp xin noãn có tỉ lệ sống >95% (Cobo, 2010). Tuy nhiên hiện tại việc trữ lạnh noãn chủ yếu ở nhóm phụ nữ >35 tuổi (Cobo, 2016).

Tuổi vợ có thể dùng để tiên đoán dự trữ buồng trứng cũng như chất lượng noãn. Ngoài tuổi vợ, dự trữ buồng trứng cũng là một chỉ số phản ánh chất lượng noãn. Anti-Müllerian hormone (AMH) là chỉ số tiên đoán tốt nhất cho dự trữ buồng trứng, khả năng đáp ứng của buồng trứng với gonadotropins cũng như chất lượng noãn và phôi (La Marca, 2017). AMH còn đóng vai trò tiên đoán tỉ lệ sống của noãn sau rã và sự phát triển phôi tiếp theo. Do đó mục đích của nghiên cứu là đánh giá mối tương quan giữa AMH với tỉ lệ sống sau rã noãn và tỉ lệ hình thành phôi nang sau rã noãn.

Nghiên cứu hồi cứu thực hiện từ 8/2015 – 8/2018 ở nhóm bệnh nhân rã noãn – ICSI. Nồng độ AMH được xét nghiệm 6 tháng trước khi tiến hành kích thích buồng trứng. Quy trình trữ và rã noãn được thực hiện theo phương pháp Cryotop được mô tả bởi Kuwayama, 2005. Noãn sau rã được cấy 3h trước khi tiến hành ICSI. Kết quả chính là tỉ lệ sống sau rã noãn, được xác định bởi hình thái noãn sau rã và hồi phục sau 3 giờ nuôi cấy trước khi ICSI. Tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phôi phân chia và tỉ lệ phôi nang cũng được theo dõi.

Nghiên cứu bao gồm 4507 noãn MII từ 484 chu kì ICSI. Độ tuổi vợ trung bình là 36,2 ± 6,1tuổi, nồng độ AMH trung bình là 2,6 ± 3,4 ng/mL và BMI 26,5 ± 4,6 kg/m2.

Tỉ lệ sống sau rã noãn là 87,37 ± 20,4%, tỉ lệ thụ tinh là 69,4 ± 25,4%, tỉ lệ phôi phân chia là 99.92 ± 1.96% và tỉ lệ phôi nang là 54,2 ± 31,16%.

Chỉ số AMH có tương quan với tỉ lệ noãn sống sau rã và tương quan rõ ràng (OR=1,041, p=0,018) khi sử dụng mô hình đa biến gồm AMH, tuổi vợ và BMI. Đường cong ROC cho thấy giá trị ngưỡng của AMH là 1,09ng/mL để có tỉ lệ sống noãn sau rã ít nhất là 70%. Không có mối tương quan giữa BMI và nồng độ FSH với tỉ lệ sống noãn.

Về sự phát triển phôi: Không có mối tương quan với tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phôi phân chia và tỉ lệ phôi nang với chỉ số AMH.

AMH có mối tương quan rõ ràng với tỉ lệ noãn sống sau rã. Tỉ lệ phôi nang giảm sau khi trữ - rã noãn, tuy nhiên không có mối tương quan với AMH.

Nguồn: Melado, L., Arnanz, A., Bayram, A., Elkhatib, I., De Munck, N., Navarro, A. T., ... & Fatemi, H. M. (2020). ANTI-MÜLLERIAN HORMONE IS AN INDEPENDENT MARKER FOR OOCYTE SURVIVAL POST-VITRIFICATION. Reproductive BioMedicine Online.

Các tin khác cùng chuyên mục:
Béo phì và sức khỏe sinh sản - Ngày đăng: 23-06-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK