Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 26-06-2020 12:52pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Nguyễn Thụy Trà My – Đơn vị hỗ trợ sinh sản (IVFAS)


Dịch bệnh SARS-CoV2 đã gây ra ảnh hưởng nặng nề cho hệ thống y tế trên toàn cầu. Để đối phó với nạn dịch này, Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kì đã đưa ra một số hướng dẫn trong việc quản lý bệnh nhân. Một trong những khuyến cáo của bản hướng dẫn này là sẽ tạm thời ngưng điều trị cho những chu kì mới, bao gồm chu kì thực hiện IUI, chu kì chọc hút hay chuyển phôi tươi/trữ. Điều này dẫn đến một số ý kiến trái chiều giữa các bác sĩ nội tiết rằng việc trì hoãn điều trị IVF trong vài tháng có ảnh hưởng đến kết quả của bệnh nhân hay không? Hơn nữa, một số bác sĩ cũng lo rằng, những bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng sẽ bị ảnh hưởng nếu việc điều trị bị trì hoãn trong đại dịch này.

Hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào cho thấy việc trì hoãn điều trị có ảnh hưởng đến các kết quả lâm sàng trong vòng 180 ngày. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định liệu việc điều trị bị trì hoãn trong khoảng thời gian ngắn (180 ngày) có ảnh hưởng đáng kể đến các kết quả lâm sàng của bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng và đặc biệt ở 2 nhóm tiên lượng kém (nhóm có AMH < 0,5ng/mL và nhóm BNLT (>40 tuổi) và AMH < 1,1ng/mL).

Nghiên cứu hồi cứu từ 2012-2018, được thực hiện trên những bệnh nhân điều trị IVF lần đầu và có kế hoạch chuyển phôi tươi. Bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng là những bệnh nhân có nồng độ AMH < 1,1ng/mL. Trong nhóm bệnh nhân này, nếu việc điều trị bắt đầu sau 90 ngày kể từ ngày thăm khám đầu tiên sẽ được xếp vào nhóm điều trị ngay lập tức, nếu việc điều trị kéo dài sau 91-180 ngày tính từ lần thăm khám đầu tiên được xem là nhóm trì hoãn điều trị.

Kết quả nghiên cứu cho thấy:

- Đối với nhóm bệnh nhân có AMH < 1,1ng/mL, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ mang thai (34,5% vs 39,1%), tỷ lệ trẻ sinh sống (21,15 vs 23%) giữa 2 nhóm điều trị ngay lập tức và nhóm trì hoãn điều trị. Ngoài ra, tỷ lệ thai sinh hóa và tỷ lệ sẩy thai cũng nhận thấy không có sự khác biệt giữa 2 nhóm này.

- Đối với 2 phân nhóm bệnh nhân có tiên lượng kém (AMH < 0,5ng/mL hay BNLT (>40 tuổi) và có AMH < 1,1ng/mL), kết quả nghiên cứu cũng nhận thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ mang thai (30,4% so với 30,8% và 25,8% so với 27,9%), tỷ lệ trẻ sinh sống (16% so với 16,5% và 10,9% so với 12,8%). Bên cạnh đó, tỷ lệ thai sinh hóa (24,4% so với 34,4%) tương đương giữa 2 nhóm điều trị ngay lập tức và nhóm trì hoãn điều trị. Tuy nhiên, tỷ lệ sẩy thai ở phân nhóm BNLT (>40 tuổi) và AMH < 1,1ng/mL được nhận thấy cao hơn ở nhóm điều trị ngay lập tức (31,9%) so với nhóm trì hoãn điều trị (18,8%).

Đối với những bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng, bất kể lý do dẫn đến việc trì hoãn điều trị là gì thì cả bệnh nhân và người tư vấn cũng lo lắng khi chu kì điều trị không thể tiếp tục. Điều này cũng đặc biệt quan trọng với những bệnh nhân có tiên lượng kém, do chưa có nghiên cứu nào cung cấp thông tin về khoảng thời gian trì hoãn điều trị ở những bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng hay khả năng thành công khi việc điều trị bị trì hoãn ở nhóm bệnh nhân này.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, ở 2 nhóm bệnh nhân tiên lượng kém như bệnh có AMH < 0,5ng/mL hay nhóm BNLT >40 tuổi và có AMH < 1,1ng/mL thì việc trì hoãn điều trị trong vòng 6 tháng không ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ mang thai, tỷ lệ trẻ sinh sống, tỷ lệ thai sinh hóa hay tỷ lệ sẩy thai. Nhìn chung, kết quả này cũng phần nào giúp cho bệnh nhân và bác sĩ yên tâm hơn khi việc điều trị bị trì hoãn trong thời gian ngắn bởi 1 số lý do khách quan như nạn dịch, công việc hay yếu tố tài chính. Trong tương lai, nghiên cứu cần phát triển thêm để xác định khoảng thời gian mà kết quả lâm sàng sẽ bị ảnh hưởng khi việc điều trị bị trì hoãn.

Nguồn: Phillip A Romanski, Pietro Bortoletto, Zev Rosenwaks, Glenn L Schattman, Delay in IVF treatment up to 180 days does not affect pregnancy outcomes in women with diminished ovarian reserve, Human Reproduction, https://doi.org/10.1093/humrep/deaa137.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Béo phì và sức khỏe sinh sản - Ngày đăng: 23-06-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK