Tin tức
on Wednesday 14-05-2025 1:32am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Phạm Diệp Vũ Khang – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Kể từ khi đứa trẻ đầu tiên được thụ thai từ công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART) tại Vương quốc Anh vào năm 1978, ART đã phát triển nhanh chóng trong 40 năm qua. Trước đây, các trung tâm hiếm muộn đã chuyển phôi giai đoạn phân chia vào tử cung của bệnh nhân để giúp bệnh nhân mang thai. Tuy nhiên, trong môi trường tự nhiên, phôi phân chia thường phát triển trong ống dẫn trứng và phôi nang phát triển trong khoang tử cung. Với sự cải thiện của môi trường nuôi cấy phôi trong ống nghiệm, tỷ lệ hình thành phôi nang dần tăng lên. Trong thập kỷ qua, chuyển phôi nang đã được sử dụng rộng rãi. Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng chuyển phôi nang mang lại tỷ lệ làm tổ, thai diễn tiến và trẻ sinh sống cao hơn so với chuyển phôi phân chia. Tuy nhiên, liệu trẻ sơ sinh được sinh ra sau khi chuyển phôi nang có kết quả chu sinh tốt hơn hay không vẫn là điều đáng quan tâm.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ giới tính trẻ sơ sinh bị lệch sau khi chuyển phôi nang, với nhiều bé trai được sinh ra hơn. Tỷ lệ sinh non và thai to so với tuổi thai (large for newborn gestational age - LGA) cao hơn trong các trường hợp chuyển phôi nang so với các trường hợp chuyển phôi phân chia. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng chuyển phôi nang không ảnh hưởng đến cân nặng khi sinh hoặc tuổi thai sơ sinh của trẻ đơn thai. Lý do chính cho sự khác biệt trong kết luận của các nghiên cứu này là sự khác biệt về quần thể được đưa vào nghiên cứu, cũng như sự khác biệt về nuôi cấy phôi nang và các kỹ thuật đông lạnh và rã đông.
Ngoài những khác biệt về mặt kỹ thuật, các đặc điểm cơ bản, bao gồm tuổi mẹ, thời gian vô sinh của mẹ và phương pháp thụ tinh, không cân bằng giữa chuyển phôi nang và chuyển phôi phân chia. Do đó, trong nghiên cứu này, đã sử dụng phương pháp khớp điểm khuynh hướng để giảm tác động của các yếu tố gây nhiễu. Mục tiêu của nghiên cứu này là sử dụng phương pháp khớp điểm khuynh hướng để có được một nhóm đối chứng cân bằng nhằm so sánh kết quả chu sinh của trẻ sinh sống giữa chuyển phôi nang và phôi phân chia trong các chu kỳ chuyển phôi trữ (frozen embryo transfer - FET) để đưa ra kết luận đáng tin cậy hơn.
Phương pháp
706 trường hợp sinh đơn thai từ chu kỳ FET đáp ứng các tiêu chí được đưa vào nghiên cứu này, trong đó có 180 trường hợp chuyển phôi phân chia và 526 trường hợp chuyển phôi nang. Sử dụng phương pháp khớp điểm khuynh hướng, thu được một nhóm cân bằng tốt với 173 cặp trường hợp. So sánh các kết quả chu sinh sơ sinh của nhóm này, bao gồm cân nặng khi sinh và tuổi thai sơ sinh. Hơn nữa, nghiên cứu sử dụng hồi quy tuyến tính đa biến để phân tích xem loại phôi được chuyển trong chu kỳ FET có tương quan với cân nặng khi sinh sơ sinh hay tuổi thai sơ sinh hay không.
Kết quả
Trước khi khớp điểm khuynh hướng
Có sự khác biệt đáng kể về tuổi mẹ và thời gian vô sinh giữa hai nhóm. Nhóm chuyển phôi nang có tuổi của mẹ trẻ hơn và thời gian vô sinh ngắn hơn. Hơn nữa, nhóm phôi nang có tỷ lệ thụ tinh khi tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection - ICSI) thấp hơn và tỷ lệ chuyển phôi kém chất lượng cao hơn. Các yếu tố khác, chẳng hạn như chỉ số khối cơ thể (body mass index - BMI) của mẹ, loại vô sinh, nguyên nhân vô sinh, số lần sinh và quy trình chuẩn bị nội mạc tử cung, không khác nhau giữa hai nhóm.
Sau khi khớp điểm khuynh hướng
Sau khi hoàn tất việc ghép điểm khuynh hướng, 173 cặp trường hợp đã được ghép đôi. Không có sự khác biệt đáng kể nào trong bất kỳ đặc điểm nào trong số 9 đặc điểm giữa nhóm chuyển phôi nang và nhóm chuyển phôi phân chia (P > 0,2 cho tất cả các so sánh).
Kết quả chu sinh ở trẻ sơ sinh
Các yếu tố như cân nặng trung bình, tuổi thai trẻ sơ sinh, giới tính, phương thức sinh, tình trạng LGA, tình trạng tuổi thai nhỏ hơn trẻ sơ sinh và sinh non không khác nhau giữa hai nhóm. Loại phôi không ảnh hưởng đáng kể đến cân nặng khi sinh hoặc tuổi thai trẻ sơ sinh. Kết quả cho thấy các yếu tố độc lập ảnh hưởng đến cân nặng của trẻ sơ sinh bao gồm BMI của mẹ (P = 0,01), giới tính trẻ sơ sinh (P = 0,001) và tuổi thai trẻ sơ sinh (P < 0,001). Hơn nữa, yếu tố độc lập ảnh hưởng đến tuổi thai trẻ sơ sinh là BMI của mẹ (P = 0,011).
Thảo luận
Trong nghiên cứu này, sử dụng phương pháp khớp điểm khuynh hướng giúp cân bằng các đặc điểm nền giữa hai nhóm chuyển phôi nang và phôi phân chia, nhóm tác giả nhận thấy không có sự khác biệt đáng kể về cân nặng sơ sinh, tuổi thai, tỷ lệ sinh non, LGA hay lệch giới tính giữa hai nhóm. Phân tích hồi quy cho thấy cân nặng sơ sinh bị ảnh hưởng bởi BMI mẹ, tuổi thai và giới tính trẻ, trong khi loại phôi chuyển không có tác động đáng kể. Kết quả này khác với một số nghiên cứu trước đó, có thể do khác biệt về tiêu chí chọn mẫu, môi trường nuôi cấy. Tuy nhiên, nghiên cứu còn hạn chế về tính hồi cứu và cỡ mẫu nhỏ. Nhóm tác giả nhấn mạnh rằng chuyển phôi nang trong chu kỳ FET không gây ra bất lợi về kết quả chu sinh so với chuyển phôi phân chia, nhưng cần nghiên cứu tiến cứu thêm để xác nhận.
Kết luận
Chuyển phôi nang cho kết quả chu sinh tương tự như chuyển phôi phân chia đối với trẻ sinh sống trong chu kỳ FET và không ảnh hưởng đến cân nặng khi sinh hoặc tuổi thai của trẻ sơ sinh.
Tài liệu tham khảo: Zeng, Y., Chen, J., Zhang, H., Nie, X., Tan, Y., & Yin, Y. (2025). Comparison of the perinatal outcomes of live-born singletons between blastocysts and cleavage-stage embryo transfer in FET cycles via propensity score matching. BMC pregnancy and childbirth, 25(1), 200. https://doi.org/10.1186/s12884-025-07347-z
Giới thiệu
Kể từ khi đứa trẻ đầu tiên được thụ thai từ công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART) tại Vương quốc Anh vào năm 1978, ART đã phát triển nhanh chóng trong 40 năm qua. Trước đây, các trung tâm hiếm muộn đã chuyển phôi giai đoạn phân chia vào tử cung của bệnh nhân để giúp bệnh nhân mang thai. Tuy nhiên, trong môi trường tự nhiên, phôi phân chia thường phát triển trong ống dẫn trứng và phôi nang phát triển trong khoang tử cung. Với sự cải thiện của môi trường nuôi cấy phôi trong ống nghiệm, tỷ lệ hình thành phôi nang dần tăng lên. Trong thập kỷ qua, chuyển phôi nang đã được sử dụng rộng rãi. Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng chuyển phôi nang mang lại tỷ lệ làm tổ, thai diễn tiến và trẻ sinh sống cao hơn so với chuyển phôi phân chia. Tuy nhiên, liệu trẻ sơ sinh được sinh ra sau khi chuyển phôi nang có kết quả chu sinh tốt hơn hay không vẫn là điều đáng quan tâm.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ giới tính trẻ sơ sinh bị lệch sau khi chuyển phôi nang, với nhiều bé trai được sinh ra hơn. Tỷ lệ sinh non và thai to so với tuổi thai (large for newborn gestational age - LGA) cao hơn trong các trường hợp chuyển phôi nang so với các trường hợp chuyển phôi phân chia. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng chuyển phôi nang không ảnh hưởng đến cân nặng khi sinh hoặc tuổi thai sơ sinh của trẻ đơn thai. Lý do chính cho sự khác biệt trong kết luận của các nghiên cứu này là sự khác biệt về quần thể được đưa vào nghiên cứu, cũng như sự khác biệt về nuôi cấy phôi nang và các kỹ thuật đông lạnh và rã đông.
Ngoài những khác biệt về mặt kỹ thuật, các đặc điểm cơ bản, bao gồm tuổi mẹ, thời gian vô sinh của mẹ và phương pháp thụ tinh, không cân bằng giữa chuyển phôi nang và chuyển phôi phân chia. Do đó, trong nghiên cứu này, đã sử dụng phương pháp khớp điểm khuynh hướng để giảm tác động của các yếu tố gây nhiễu. Mục tiêu của nghiên cứu này là sử dụng phương pháp khớp điểm khuynh hướng để có được một nhóm đối chứng cân bằng nhằm so sánh kết quả chu sinh của trẻ sinh sống giữa chuyển phôi nang và phôi phân chia trong các chu kỳ chuyển phôi trữ (frozen embryo transfer - FET) để đưa ra kết luận đáng tin cậy hơn.
Phương pháp
706 trường hợp sinh đơn thai từ chu kỳ FET đáp ứng các tiêu chí được đưa vào nghiên cứu này, trong đó có 180 trường hợp chuyển phôi phân chia và 526 trường hợp chuyển phôi nang. Sử dụng phương pháp khớp điểm khuynh hướng, thu được một nhóm cân bằng tốt với 173 cặp trường hợp. So sánh các kết quả chu sinh sơ sinh của nhóm này, bao gồm cân nặng khi sinh và tuổi thai sơ sinh. Hơn nữa, nghiên cứu sử dụng hồi quy tuyến tính đa biến để phân tích xem loại phôi được chuyển trong chu kỳ FET có tương quan với cân nặng khi sinh sơ sinh hay tuổi thai sơ sinh hay không.
Kết quả
Trước khi khớp điểm khuynh hướng
Có sự khác biệt đáng kể về tuổi mẹ và thời gian vô sinh giữa hai nhóm. Nhóm chuyển phôi nang có tuổi của mẹ trẻ hơn và thời gian vô sinh ngắn hơn. Hơn nữa, nhóm phôi nang có tỷ lệ thụ tinh khi tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection - ICSI) thấp hơn và tỷ lệ chuyển phôi kém chất lượng cao hơn. Các yếu tố khác, chẳng hạn như chỉ số khối cơ thể (body mass index - BMI) của mẹ, loại vô sinh, nguyên nhân vô sinh, số lần sinh và quy trình chuẩn bị nội mạc tử cung, không khác nhau giữa hai nhóm.
Sau khi khớp điểm khuynh hướng
Sau khi hoàn tất việc ghép điểm khuynh hướng, 173 cặp trường hợp đã được ghép đôi. Không có sự khác biệt đáng kể nào trong bất kỳ đặc điểm nào trong số 9 đặc điểm giữa nhóm chuyển phôi nang và nhóm chuyển phôi phân chia (P > 0,2 cho tất cả các so sánh).
Kết quả chu sinh ở trẻ sơ sinh
Các yếu tố như cân nặng trung bình, tuổi thai trẻ sơ sinh, giới tính, phương thức sinh, tình trạng LGA, tình trạng tuổi thai nhỏ hơn trẻ sơ sinh và sinh non không khác nhau giữa hai nhóm. Loại phôi không ảnh hưởng đáng kể đến cân nặng khi sinh hoặc tuổi thai trẻ sơ sinh. Kết quả cho thấy các yếu tố độc lập ảnh hưởng đến cân nặng của trẻ sơ sinh bao gồm BMI của mẹ (P = 0,01), giới tính trẻ sơ sinh (P = 0,001) và tuổi thai trẻ sơ sinh (P < 0,001). Hơn nữa, yếu tố độc lập ảnh hưởng đến tuổi thai trẻ sơ sinh là BMI của mẹ (P = 0,011).
Thảo luận
Trong nghiên cứu này, sử dụng phương pháp khớp điểm khuynh hướng giúp cân bằng các đặc điểm nền giữa hai nhóm chuyển phôi nang và phôi phân chia, nhóm tác giả nhận thấy không có sự khác biệt đáng kể về cân nặng sơ sinh, tuổi thai, tỷ lệ sinh non, LGA hay lệch giới tính giữa hai nhóm. Phân tích hồi quy cho thấy cân nặng sơ sinh bị ảnh hưởng bởi BMI mẹ, tuổi thai và giới tính trẻ, trong khi loại phôi chuyển không có tác động đáng kể. Kết quả này khác với một số nghiên cứu trước đó, có thể do khác biệt về tiêu chí chọn mẫu, môi trường nuôi cấy. Tuy nhiên, nghiên cứu còn hạn chế về tính hồi cứu và cỡ mẫu nhỏ. Nhóm tác giả nhấn mạnh rằng chuyển phôi nang trong chu kỳ FET không gây ra bất lợi về kết quả chu sinh so với chuyển phôi phân chia, nhưng cần nghiên cứu tiến cứu thêm để xác nhận.
Kết luận
Chuyển phôi nang cho kết quả chu sinh tương tự như chuyển phôi phân chia đối với trẻ sinh sống trong chu kỳ FET và không ảnh hưởng đến cân nặng khi sinh hoặc tuổi thai của trẻ sơ sinh.
Tài liệu tham khảo: Zeng, Y., Chen, J., Zhang, H., Nie, X., Tan, Y., & Yin, Y. (2025). Comparison of the perinatal outcomes of live-born singletons between blastocysts and cleavage-stage embryo transfer in FET cycles via propensity score matching. BMC pregnancy and childbirth, 25(1), 200. https://doi.org/10.1186/s12884-025-07347-z
Các tin khác cùng chuyên mục:












TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK